Khiemnguyen

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

Quan điểm của Phạm Quỳnh về tục ngữ ca dao (phần 3)



Ca dao là gì và cách chế tác thế nào, mới rồi tôi đã giải tường. Nay ca dao rất là quan hệ với phong tục, vì cái tính tình tự nhiên của người dân thổ lộ ra cổ lời hát câu ca ở các chôn quê mùa, cho nên có ông chép sách ca dao đã đề ra “Gương phong tục”, lại có ông đề là “Việt Nam quốc túy”, thật không phải là quá đáng.
Phong tục nước ta phản chiếu ra cả đấy, quốc túy của ta chung đúc cả vào đấy; lắm khi nghe câu hát réo rắt véo von, tưởng như cái linh hồn của tổ quốc phảng phất ở đâu trên cành tre ngọn cỏ vậy. Thanh âm này mới thật là thanh âm tự nhiên của ta, thật như ở trong ống thiên lại mà ra. Ngày xưa về thời đại còn mê tín, thường cho câu đồng dao là có thần ứng, nghiệm đó biết được cớ thịnh suy trong nước; lại có người lợi dụng câu ca dao mà bao biếm kẻ cầm quyền đương đạo, việc chính trị đương thời. Xét về một phương diện khác, thời ba trăm thiên trong kinh Thi là gì? Chẳng qua là những lời ca dao trong dân gian đời bấy giờ, thánh nhân biên tập san định, truyền cho đời sau, tôn sùng làm một bộ kinh sách thánh thần, có nghĩa huyền bí. Tôi thiết tưởng nhiều bài ca dao của ta lại còn hay hơn những bài trong Kinh Thi nhiều: chỉ vi không có lòng mê tín sùng thượng nên thường coi là bỉ lý nôm na. Nhưng ngày nay người mình đã biết quí chuộng tiếng quốc âm, thời những tục ngữ ca dao chính là kinh điển cho các nhà làm văn đó, hà tất phải đi mượn những điển xưa tích cũ đâu xa!
Tục ngữ nhiều bao nhiêu thời ca dao cũng nhiều đến bấy nhiêu, nghĩa là cứ lấy nghìn mà kể, không sao nói cho hết được. Ngắn từ hai câu bốn câu, dài đến mười lăm hai mươi câu, hễ có cái giọng điệu tự nhiên thanh thoát, thật thà mà có ý tứ, nhỏ từ trẻ con chăn trâu ngoài đồng lớn đến bà già ẵm cháu ngồi võng, vừa vừa như các trai gái nhà quê khi gieo mạ, khi tát nước, khi gánh củi, khi hái dâu, tự nhiên ứng khẩu mà hát lên, ấy là lời ca dao đó. Nay không thể biết được hết các câu ca dao cũng không thể đọc được hết các câu dã biết, xin lược cứ ra ít nhiều câu, nhớ đâu nói đấy để các ngài rõ cái phong thú tự nhiên, cái ý vị thâm trần của lối thi ca truyền khẩu ở ta.
Ví von mà như câu:
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Sao trăng lại phải chịu luồn đám mây?
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,
Đèn ra trước gió được chăng hỡi đèn?
chẳng thanh thú và có ý tứ lắm dư? Lại câu:
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?
Trăng còn thời núi hãy còn!
Có thi vị biết bao nhiêu! Lại câu:
Đố ai mà được như sen,
Chung quanh cánh đỏ giữa chen nhị vàng.
Nhị vàng ngó trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mủi bùn.
Tưởng không bài vịnh hoa sen nào bằng bốn câu ấy. Lại câu:
Người thì mớ bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơi,
Cha đời cái áo rách này,
Mất chúng mất bạn vì mày ảo ơi!
Than thân mà lại trách đời, nhưng nói thanh nói mát biết bao! Lại những câu ngông nghênh mà cũng có thú vị:
Ngồi rồi may túi dựng trời,
Đan phên chắn gió giết voi xem dò,
Ngồi rồi vác thước đi đo,
Đo từ núi Sở đo lên chùa Thầy.
Ba khoản trên thời có lẽ khó thật, chứ khoản dưới thời ngày nay ta đã có các ông đạc địa kỹ sư rồi. Lại:
Đố ai quét sạch lá rừng.
Để ta khuyên gió gió đừng rung cây.
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Lại những câu hát trẻ con, ngớ ngẩn mà cũng hay:
Con kiến mày ở trong nhà,
Tao đóng cửa lại mày ra đàng nào?
Con cá mày ở dưới áo,
Tao tát nước vào mày lội đàng mô?
Con cò lặn lội bờ ao,
Tôi có tội nào ông sẽ sáo măng.
Có sáo thời sáo nước trong,
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.
Bắc thang lên đến tận trời,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe thấy nói Cuội cười,
Bởi hay nói dối phải ngồi ấp cây!
Lại bài hát trẻ con này nữa, thật là một bài cách trí dạy về các giống chim:
Tùng!... Tùng!...
Đánh ba tiếng trống,
Sắp quân cho chinh.
Phương hoàng thống lĩnh,
Bạch hạc hiệp đồng,
Tả chi thì công,
Hữu chi thì sếu.
Giang cao ngất nghểu,
Đi trước tiên phong,
Cả mỏ bồ nông.
Đi sau tiếp hậu.
Sáo đen sáo sậu.
Dặn dục đôi bên.
Chú quạ thông tin,
Dóng dả ba quân.
Đội lương đi trước,
Một đàn vịt nước,
Chú két chú le,
Sắm sửa thuyền bè,
Cho anh trẩy thủy,
Chim chích chim di Bé mọn biết gì, ơ nhà coi sóc.
Chú cốc chú cò,
Coi sóc các làng.
Chèo bèo nỏ nang,
Bàu cho làm huyện.
Đêm hôm đi tuần,
Phó cho chú vạc.
Chú ngỗng nghếch ngác,
Như thề đàn bà,
Chứ vịt chứ gà,
Nhắc võng ông già,
Trèo lèn núi Triều,
Giặc thấy đã nhiều,
Chạy như cun cút..
Các cậu bé thuộc được bài này thời cũng biết được một mớ tên chim.
Ngoài những câu đồng dao đó, còn nhiều câu mô tả về người đời trào phúng về thói đời, xem đấy mà rõ được hết thế thái nhân tình. Nào những câu:
Sự đời nghĩ củng nực cười,
Một con cá lội mấy người buông câu!
Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi tẻ ngắt thì nào thấy ai.
Chổi cùn cắp nách khăng khăng,
Hễ ai hỏi đến thì văng nghìn vàng.
Củi mục bà để trong rương,
Hễ ai hỏi đến trầm hương của bà.
Tôi yêu anh vạn, tồi mến anh nghìn,
Anh có muốn ăn thuốc đưa tiền tôi mua.
Bây giờ tiền hết gạo không,
Anh ơi, trở lại mà trông lấy hòm.
Bao giờ tiền có gạo còn,
Bấy giờ tôi lại trông hòm cho anh.
Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng thấp chê lùn,
Lớn lên béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống xương sườn bày ra;
Rán những kẻ hay chê người:
Nói người chẳng nghĩ đến thăn,
Thử sờ lên gáy xem gần hay xa.
Nói người chẳng ngẫm đến ta.
Thử sở lên trán xem xa hay gần.
Ai ôi, chớ vội cười nhau,
Ngắm mình cho tỏ trước sau sẽ cười.
Cười người chớ có cười lâu,
Cười người hôm trước hôm sau người cười.
Nói về nòi giông, không thể nào chộn lẫn được:
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu diu lại nở ra dòng Liu diu.
Con vua thì lại làm vua,
Con nhà thày chùa lại nhặt lá da.
Nói về nghĩa gia tộc là trọng, dẫu lòng yêu dấu riêng cũng phải theo cái trật tự trong gia đình:
Bốn con ngồi bốn chăn giường,
Mẹ ơi, mẹ hời mẹ thương con nào?
Mẹ thương con bé mẹ thay,
Thương thì thương vậy chẳng tày trưởng nam.
Về đạo vợ chồng, nhiều câu tỏ được cái đức tính người đàn bà, và rõ cái bạc tình của bọn tu mi. Như những câu:
Vợ chồng là nghĩa già đời,
Ai ơi! chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Thuyền bàu trở lại về đông,
Con di theo chồng để mẹ cho ai!
Mẹ già đã có con trai,
Phận con là gái dám sai chữ tòng.
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?
Tay bưng đĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xỉn dừng bỏ nhau, v.v...
Câu sau này chắc là anh nhà quê nào mới ra tỉnh trông thấy nhiều các ả mĩ miều trắng đẹp về nhà đã có ý rẻ rúng mẹ đĩ:
Trắng da vì bởi phấn giồi
Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.
Trắng da là dĩ, anh ôi!
Đen da là vợ ở đời với anh.
Lại chị này gặp anh chồng không ra gì, tuy cay đắng trong lòng mà vẫn giữ đạo thủy chung:
Chồng em nó chẳng ra gì,
Tổ tôm sóc đĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây có chị em nhà,
Còn năm ba thúng thóc với một vài cần bông,
Tôi bán đi trả nợ cho chồng,
Còn ăn hết nhịn bằng lòng chồng con.
Tôi đắng cay ngậm quả bồ hòn,
Nói thêm xấu hổ chồng con chẳng ra gì.
Cái nết nhẫn nhục phục tòng của người đàn bà nước ta thật đáng kính đáng trọng muôn phần.
Còn cái tính ghen tuông thời đàn bà đời nào nước nào chẳng có:
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Những lỗi đó tại ai? Há chẳng phải tại đàn ông hay ra dạ bắc nam, sinh lòng phụ bạc dư?
Có trăng nên mới phụ đèn,
Có nơi trang trọng phụ phàng nghĩa xưa.
Cái tính hay nết tốt của người đàn bà ấy cũng bởi sự giáo dục trong gia đình mà ra. Hãy nghe lời mẹ dặn con đi lấy chồng:
Con lạy cha hai lạy một quì,
Lạy mẹ ba bốn lạy con đi lấy chồng.
Mẹ sắm cho con cái yếm nhuộm nhất phẩm hồng,
Thắt lưng đũi tím bộ nhẫn đồng con đeo tay.
Con gái lớn ơi! Mẹ bảo đây này.
Học buôn học bán cho tày người ta,
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ là người lo toan.
Phòng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
Trước là đẹp mặt cho chồng,
Sau là họ mạc củng không chê cười.
Con hãy nhớ bấy nhiêu lời!
y đàn bà nước Nam ta xưa nay công việc nặng nề như thế:
Lấy chồng phải gánh giang san cho chồng.
Nay đàn bà bây giờ thế nào? Chắc người hay vẫn còn nhiều, nhưng cũng đã thấy nhiều hạng đúng với mấy câu sau này:
Chồng ăn chả vợ ăn nem,
Đứa ở có thèm mua thịt mà ăn.
Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng!
Nhưng lỗi ấy cũng lại tại ai? Há chẳng phải tại người đàn ông đã đem cái gương xấu vào trong gia đình dư?
Song đời nào cùng vậy, lạ gì cái thói đàn ông, người chồng hiền thời ít, kẻ ăn chơi thời nhiều, vì:
Thế gian có vài sự khôn chừa,
Rượu nồng dê béo gái vừa dương xuân;
Quần lĩnh thâm vỗ trái đùi non...
Mấy cái thú đó nhiều ông không thể cầm lòng được, cho nên có người tạ dĩ lấy câu:
Đàn ông năm thiếp bảy hầu,
Để phỉ cái lòng túng dục, rồi về nói cối với vợ:
Mới yêu thì cú cũng yêu,
Mới có mĩ miều cũ có công lênh.
Dù chàng năm thiếp bảy thê,
Chàng cũng chẳng bỏ nái sề này đâu.
Rõ ràng giấy trắng mực đen,
Duyên ai phận nấy chớ ghen mà gầy...,
Tuy vậy mà lấy chồng nước nhà, dù chồng hư đi nữa, rượu chè trai gái, người vẫn còn đấy đi đâu, không đến nỗi Bắc Nam đôi ngả, Đông Tây cách vời, như tình cảnh các cô các thím đời nay. Hãy nghe lời thím Khách than thân:
Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô dốt vàng cho chủ Khách.
Một tay cầm cái dù rách,
Một tay xách cái khăn bông,
Em đứng bờ sông,
Em trông sang bên nước người,
Hỡi chú Chiệc ơi, là chú Chiệc ơi!
Một tay em cầm quan tiền,
Một tay em xách người bồ dìn,
Em ném xuống sông,
Quan tiền nặng thì quan tiền chìm,
Bồ dìn nhẹ thì bồ dìn nổi,
Ói ai ôi! của trọng hơn người!
Song Ngô Khách cũng có năm bảy loài, đó là chú Khách kiết, che cái dù rách, nên thím mới cực thân như thế, chứ vào những chú sang trọng thời các thím cũng sướng.
Cho nên nhiều cô con gái vẫn ước ao rằng:
Mẹ ơi, em chẳng lấy dân,
Dù xa dù gần lấy Khách mà thôi.
Lấy Khách được mặc áo dôi,
Được đi giày đỏ được ngồi ghế cao.
Xin tùy ý cô, nhưng phải nhớ câu:
Thản gái như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cầy.
May ra thời được mặc áo đôi, mà chẳng may ra thời phải cầm dù rách, cũng đành chịu vậy chứ sao!
Phận con gái như thế. Nay làm trai ở đời thời phải làm thế nào?
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chở vội nợ nần chớ lo,
Khi nên trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
Trời sinh trời chẳng phụ nào,
Phong văn gặp hội anh hào ra tay.
Trí khôn sắp để dạ này.
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Phải biết rằng:
Người đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Lại phải biết:
Anh hùng khi gặp khúc lươn,
Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.
Dẫu không gặp dịp làm nên cũng không nên ngã lòng mà tự hạ:
Nên ra tay kiếm tay cờ,
Chẳng nên thì chớ chẳng nhờ tay ai.
Mấy câu đó cũng ra cái chí nam nhi hào hiệp lắm.
Còn những chàng ăn chơi táng chí, những cậu “công tử bột”, thì chắc trong bụng nghĩ rằng:
Cơm cha áo mẹ, ai ôi!
Chẳng ăn củng thiệt chẳng chơi củng hoài, cn gì làm ăn học hành cho khó nhọc:
Đời người sống mấy gang tay,
Hơi dâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm.
Tối rồi trời lại sáng ra,
Đi đâu mà vội cho già mất thân.
Vì muôn sự là bởi số hệ cả:
Số giàu tay trắng cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Rút cục thành con người ngang tàng vô dụng:
Ở đâu mà chẳng biết ta.
Ta con ông sấm cháu bà thiên lôi.
Xưa kia ta ở trên trời,
Đứt giây rơi xuống làm người thế gian.
Bởi thế nên vào đâu hại đấy, nhỏ hại cha mẹ, lớn hại v con, trong nước nhiều những hạng công tử ngang tàng vô dụng như vậy thời thành cái nguy hiểm cho cả xã hội.
Những người hay chơi cờ bạc thời nên thuộc mấy câu này:
Cờ bạc là bác thằng bần,
Áo quần bán hết ngồi trần tô hô,
Cờ bạc là bác thằng bần,
Ruộng vườn bán hết chôn chăn vào cùm.
Nhưng mà ở đời người khôn kẻ dại, kẻ dữ người lành, lại những hạng không lành không dữ, không dại không khôn, mà dở dở ương ương, nói bao nhiêu cho xiết, người năm bảy bậc, của năm bảy loài, hạng nào cũng có những câu khuyên răn, lời châm biếm đích đáng; nay không thể kể hết được những thói xấu, nết tốt cùng là tính dởm của người ta, ít ra cũng nên biết qua các hình dáng người, vì người đời tâm tính thường hiện ra ngoài mặt, và thói đời hay trông mặt bắt hình dong. Vậy phải biết:
Đàn ông rộng miệng thì sang,
Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.
Người khôn con mắt đen sì,
Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
Những người tí hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp gái buôn chồng người.
Những người phinh phình mặt mo,
Chân di chữ bát thì cho chẳng màng.
Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Những người mặt nạc đóm giầy,
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn.
Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền, v.v...
Lại những câu này để an ủi cho những người ít nhan sắc:
Người xấu duyên lặn vào trong,
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.
Bấy nhiêu câu tuy không đủ làm được ông thày tướng, song cùng đủ đoán được hình dong nhiều người.
Các ngài xét những câu phong dao tôi kể từ trước đến giờ, thời cũng lượng được cái phạm vi của ca dao rộng biết dường nào. Bao nhiêu nhân tình thế thái là diễn ra câu hát được cả, câu êm ái, câu chua cay, câu chơi đùa bỡn cợt, câu nào cũng có cái giọng thanh thoát tự nhiên, hình như không có tay người chải chuốt. Ây ca dao khác những lối vận văn khác là thế. Nhưng đó mới là một phần trong ca dao mà thôi, còn phần nữa hay hơn nhiều, là những câu hát phong tình. Trai gái hát ghẹo nhau, nhưng ghẹo nhau một cách thanh tao chính đính, không có thô tục lả lơi, vẫn giữ được cái mùi quê thật thà, chưa nhiễm phải những thói giả văn minh điêu bạc phù phiếm đời nay. Tôi tiếc rằng không thể nào đọc được hết những câu hay tôi đã lựa, vậy xin kể qua răm ba câu để các ngài nghe.
Con trai ve con gái muôn lấy làm vợ:
Lấy ai thì cũng một chồng.
Lấy ta ta bế ta bồng trên tay,
Yêu nhau chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo...
Ve cô con gái mắt sắc như con dao cau:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
Uớc gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát tràng về xây.
Xây dọc anh lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh...
Tất có bụng thương yêu mới ra lời ve vãn, nhưng thương yêu vì nỗi gì?
Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má núng đồng tiền,
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương miệng nói lại càng thêm xinh.
Chín thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt hữu tình với ai!
Người mà được đủ mười phân vẹn mười như thế thời cũng đáng thương thật/
Con trai ve, con gái nếu thuận tình tất phải đáp lại. Nhưng trước hẵng mời ăn khẩu trầu, vì miếng trầu là đầu câu truyện:
Tiện đây dưa một miếng trầu,
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi Tàu.
Giữa têm cát cánh hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thật là say.
Dầu mặn dầu lạt dầu cay dầu nồng.
Dầu chẳng nên vợ nên chồng,
Xơi răm ba miếng kẻo lòng nhớ thương.
Miếng trầu ở nước ta thật là môi giới cho cuộc ái tình:
Gặp nhau ăn một miếng trầu,
Gọi là nghĩa củ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng bằng bao.
Muốn cho đông liễu tây dào là hơn.
Miếng trầu kể hết nguồn cơn,
Muốn xem dây đấy thiệt hơn thế nào.
Miếng trầu là nghĩa tương giao,
Muốn cho dây đấy duyên vào hợp duyên.
Đêm khuya đương gạn gùng nhau, đến lúc đã gần xiêu lòng thời trời sáng mất rồi: tức thay!
Đêm qua nghe hạc cầm canh,
Nghe chim phượng nhắn, nghe anh khuyên nàng.
Anh khuyên nàng đã hồ nghe,
Trách con gà trống te te gảy dồn!
Cho nên ước ao rằng:
Củng nên bắt họ Hi Hòa,
Từ rày làm lịch đêm ra cho dài,
Trai gái làm ruộng ngoài đồng hát ghẹo nhau:
Hôm qua tát nước dầu đình,
Bỏ quên cái áo có cành hoa sen.
Em được cho chúng anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà,
Áo anh sứt chỉ dường tày
Vợ anh chưa có mẹ già chửa khâu.
Áo anh sứt chỉ dã lâu,
Mai mượn cồ ấy ưào khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Ít nữa lấy chồng anh lại giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm,
Giúp em đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp đồi chầm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo.
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau...
Giúp em thế thời em đến mất cả người!
Con gái đã mắc phải ái tình, khác nào như chim mắc lưới, gỡ sao cho được:
Chim khôn mắc phải lưới hồng
Ai mà gỡ được dền công lạng vàng.
Đền vàng anh chẳng lấy vàng,
Lòng anh chỉ quyết lấy nàng mà thôi.
Thương yêu nhau lúc còn con gái thời mới mong nên vợ nên chồng được, chứ thương yêu nhau lúc đã lấy chồng rồi thời biết sao được?
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Cô có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đng một lá trâu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủa nào ra!
Cho nên trước khi buông lời ve vãn, nên biết người yêu hãy còn con gái hay đã có chồng rồi.
Thân em như tấm lụa đào.
Còn nguyên, hay đã xé vào cho ai?
Thân gái như mảnh lụa đào,
Phất phơ trong chợ biết vào tay ai!
Nhưng cũng có khi không biết rõ, thành ra xôi hỏng bỏng không:
Hôm xưa anh đến chơi nhà,
Thấy mẹ nằm võng thấy cha nằm giường,
Anh thấy em nằm dất anh thương,
Anh ra kẻ chợ đóng giường tám thang.
Bốn góc thời anh thếp vàng,
Bốn chân thếp bạc tám thang trạm rồng
Bây giờ phải bỏ giường không,
Em đi lấy chồng phí cả công anh!
Ngỡ rằng em chửa có chồng,
Để anh mua cốm mua hồng sang sêu.
Ai ngờ em đã có chồng,
Để cốm anh mốc để hồng long tai.
Ngỡ là long một long hai,
Ai ngờ long cả trăm hai quả hồng!
Cũng có khi chị con gái còn phân vân, bên nọ hỏi, bên kia hỏi, chưa biết nhận bên nào, đừng bên nào, anh con trai phải khuyên dỗ đến lời:
Công anh đắp nấm trồng chanh,
Chẳng dược ăn quả vin cành cho cam.
Xin em đừng ra dạ Bắc Nam,
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề,
Huống tam thu nhi bất kiến hềt
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu,
Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu,
Cầu tre vững dịp hơn cầu thương gia,
Bắc thang lên thử hỏi trăng già,
Phận dàn bà con gái hạt mưa sa gịữa trời.
May ra gặp được giếng khơi,
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn.
Chẳng may ra số phận gian nan,
Phải nơi cay đắng biết phàn nàn cùng ai?
Trót yêu nhau giá thú bất luận tài!
Lại cũng có chị làm cao, ve hoài mà không thèm trả lời:
Ba đồng một quả hồng ngâm,
Bên ấy chẳng nói thời câm mất mồm.
Ba đồng một quả hồng dời,
Bên ấy có tài thì cất tiếng lên.
Cất lên một tiếng la đà.
Cho chim nhớ tổ cho gà nhớ con.
Cất lên một tiếng linh đinh,
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta!
Nhưng lạ nhất trong lối hát phong tình, là những câu hát đố, trai gái đố lẫn nhau cốt là nói truyện tình mà mượn vật ngoài để tiếp tục, tức là thuộc về thể hứng như tôi đã nói trên kia. Xin đọc một câu hát đố nữa thời thôi, vì giờ đã muộn, không dám giữ các ngài ngồi lâu nữa.
đâu năm cửa, nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một giòng?
Sông nào bên đục bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhẩt xứ Thanh?
đâu lại có cái thành tiên xây?
đâu là chín tầng mây?
đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại ở hang?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng?
Ở đâu mà lại có sông Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai mà sinh ra cửa ra nhà, nàng ôi?
Kia ai luyện đá vá trời!
Kia ai trị thủy cho đời được yên?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi.
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một giòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
Trên trời là chín tầng mây,
Dưới sông lắm nước núi nay lắm vàng.
Chùa Hương Tích mà lại có hang,
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không.
Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng.
Trên trời lại có con sồng Ngân Hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa.
Ông Hữu Sào sinh ra cửa ra nhà, chàng ôi!
Bà Nữ Oa luyện đá vá trời,
Vua Đại Vủ trị thủy cho đời yên vui.
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
Mấy câu đó kiêm cả thiên văn, địa lý, lịch sử, phong tục, thật là một bài học phổ thông.
Nhiều khi trai gái đố nhau như thế thành ra một cuộc hát thi, bên nam bên nữ đối đáp nhau, ứng khẩu thành chương, dùng toàn bằng những lời tục ngữ ca dao mà kết liền lại khéo lắm, thành từng bài hát trường thiên. Gặp khi giai tiết hay là lúc hội hè, các làng thường đặt cuộc thi, treo giải thưởng, gọi là “hát trống quân” hay là “hát quan họ”, tài tử giai nhân các nơi đến thi lấy giải, khác nào như một hội hàn lâm của công chúng đặt nơi cửa đình ngoài hàng quán vậy. Ngày nay những cách tiêu khiển của người ta mỗi ngày một nhiều, một tạp, nào là tuồng Tây, tuồng Tàu, nào là chớp bóng, múa “xiếc”, rồi cái tục rất phong thú là tục trai gái hát thi nhau sẽ dần dần biến đi mất, thật cũng nên tiếc.
Tôi xin cám ơn các ngài đã chịu khó ngồi nghe được lâu như thế. Mục đích tôi trong bài diễn thuyết này là muốn chứng tỏ rằng tiếng quốc âm ta phong phú là dường nào, và cái văn chương truyền khấu của ta thanh thú biết bao nhiêu. Tiếng Việt Nam ta hay lắm, các ngài ạ. Người ngoại quốc cũng phải khen là một thứ tiếng êm như ru, vui như hát, mỗi vần đánh ra năm dấu đọc thành sáu giọng khác nhau, như trong cung đàn vậy, tưởng không có mấy thứ tiếng hòa bình êm ái bằng tiếng ta. Vậy thời bọn ta phải nên trân trọng lấy cái quốc âm quí báu ấy, ra công tập luyện trau dồi cho mỗi ngày một hay một đẹp hơn lên. Dù ta học chữ Tây hay học chữ Tàu, ta cũng chớ nên quên bỏ tiếng tổ quốc, là cái tiếng từ khi lọt lòng ra đã học nói, và đến khi hấp hối chết cũng còn nói. Ta nên nhớ lấy câu ca dao của nưđc nhà:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn![1]./.
.






[1] Tục ngữ ca dao là do khẩu truyền nên lắm khi vô bằng. Có khi một câu mà mỗi nơi đọc ra một khác, mỗi người hiểu ra một nghĩa. Những câu tôi chép trong bài này, hoặc sở đắc ở miệng người hoặc nhặt ở các sách người trước biên tập chắc cũng nhiểu câu không được đúng, không thể nào biết hết được. Vậy có chỗ sai lẩm xin hải nội chư quân tử chỉ giáo cho, tác giả có lời cám ơn trước

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét