Khiemnguyen

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

Chữ Nho với văn quốc ngữ (phần 2)



Nay đã giải rõ các lẽ đủ biết rằng chữ nho cần cho quốc văn, không thể bỏ chữ nho mà mong quốc văn thành được. Vậy xét đến đoạn thứ hai và bàn về cách nên dùng chữ nho trong quốc văn thế nào cho thích hợp. Đã nói cả vấn đề quôc văn chỉ rút lại có một câu hỏi đó mà thôi.
Các nhà để bụng về quốc văn trước sau cũng chỉ tranh biện nhau có một câu đó mà thôi. Những người hẹp hòi thiên lệch không chịu nhận rằng tiếng nước mình đối với chữ nho có cái giây liên lạc rất bền chặt không thể cắt đứt đi được, thì không nói làm chi, còn những người đã biết như vậy, vẫn còn phân vân chưa biết nên dùng chữ nho thế nào cho thích hợp. Người thì nói hiện nay những chữ gì đã thường dùng, nhiều người biết rồi thì cứ nên dùng, vì những chữ ấy hình như đã “nhập tịch” vào tiếng Việt Nam rồi, còn những chữ gì khó và lạ không nên dùng. Người thì nói sự dùng chữ nho là một sự bất đắc dĩ, phàm cái gì có thể nói ra Nôm được không nên dùng chữ, dù chữ đã thông dụng mặc lòng; còn cái gì Nôm vốn không có mà có thể đặt tiếng mới ra cũng nên đặt, còn hơn là mượn chữ sẵn. Lại người thì nói cách dùng chữ nho phải để tùy nhà văn, chọn chữ nào là đẹp lời, lọn nghĩa, dễ đọc, dễ nghe, hợp với ý nghĩa câu văn thì cứ việc dùng, không quản gì là chữ đã thông dụng hay chưa thông dụng, nhiều người biết hay ít người biết, vì nếu chưa thông dụng dùng rồi mà hay tất thông dụng, nếu ít người biết dùng rồi mà phải tất nhiều người biết. Cả chữ nho là cái kho vô tận, nhà văn ta được tha hồ mà kén chọn, mà lượm lặt, mà điều hòa với tiếng Nôm cho quốc văn mỗi ngày một phong phú thêm lên. Lại người thì cho rằng bao nhiêu những chữ về cách trí triết học, Tàu tuy cũng dịch theo Âu châu mà chữ Tàu lão luyện thâm thúy, dịch vừa đúng nghĩa, vừa trang nhã, tiếng Nôm mình không bao giờ dịch cho bằng được, ta cứ nên mượn cả của Tàu mà dùng; còn các chữ thường khác thì để tùy ý nhà văn muốn dùng thế nào thì dùng, miễn là lời lẽ được chải chuốt thanh thoát mà thôi.
Bấy nhiêu người nói đều có lẽ phải cả, mỗi người phải ra một đường, nhưng chưa ai bàn thấu triệt đến căn để mà bày được một phép tắc nhất định làm chuẩn đích.
Cứ thực mà nói, sự dùng chữ nho trong quốc văn thật không thể nhất định thế nào là vừa phải được, không biết lấy gì làm bằng mà đặt phép tắc được.
Như luận giả thứ nhất nói chỉ nên dùng những chữ thông dụng mà thôi, nhưng cùng khó lòng mà biết chữ gì là thông dụng, chữ gì là không thông dụng, chữ gì là đã “nhập tịch” tiếng Việt Nam, chữ gì là chưa “nhập tịch”. Nếu gọi chữ thông dụng là những chữ dễ hiểu, nhiều người biết, thì những chữ ấy phần nhiều là chữ trong tiếng Nôm ta đã có rồi, có cần gì phải dùng, và dùng nữa thì có bổ ích gì cho quốc văn cho lắm? Như: nhĩ mục“tai mắt”, tâm tư là “bụng nghĩ”, sơn xuyên là “núi sông”, hoa thảo là “hoa cỏ”, thì dùng chữ hay dùng Nôm cũng vậy, tùy cái điệu câu văn ưa Nôm thì dùng Nôm, ưa chữ thì dùng chữ, không hề gì. Đến như những chữ nghĩa đã hơi cao một chút, tiếng Nôm đã khó tìm được tiếng tương đương, mà người nào biết thì cho là chữ thường, người không biết tất cho là khó, là lạ. Như chữ đĩnh ngộ, chữ lỗi lạc, chữ hoài bão, chữ cảm khái, tất người biết chữ cho là thường, mà người biết ít đã lấy làm khó hiểu rồi.
Cho nên muốn phân biệt cho rõ chữ nào là thông dụng, chữ nào là không thông dụng thật không phải là dễ.
Luận giả thứ nhì nói nên hết sức chỉ dùng Nôm mà thôi, không có tiếng cũ thì đặt tiếng mới ra, bất đắc dĩ mới dùng đến chữ. Nói thì dễ lắm, mà làm thường không được dễ như vậy. Sự đặt tiếng không phải là một việc dung dị, xưa nay không ai dụng tâm mà đặt được tiếng mới bao giờ: phàm các tiếng mới là tự nhiên mà tạo thành, tự nhiên mà phổ thông. Một người tình cờ nói ra trước: nếu cái tiếng ấy gọn ghẽ dễ nghe thì người khác cứ thế mà nói, bao giờ nghĩ đến sự đó tất dùng đến tiếng đó, thế là thành tiếng thông dụng. Đến như nói rằng bất đắc dĩ hẵng nên dùng chữ nho thì cứ các lẽ đã giải trên kia, tưởng sự bất đắc dĩ cũng là một sự thường vậy; bất đắc dĩ mà đã thành lệ thường thì sao gọi là bất đắc dĩ được?
Luận giả thứ ba nói rằng sự dùng chữ nho trong quốc văn phải để tùy ý nhà làm văn cân nhắc lựa lọc mà dùng, không thể hạn định trước được. Điều đó thì rất phải: nghề văn cũng như mọi nghề khác, phải để cho nhà nghề được rộng quyền tự do mới được. Nhưng tự do không phải là không có phép tắc, tha hồ muốn dùng chữ thế nào thì dùng. ít ra cũng phải biết cách cân nhắc lựa lọc thế nào là thích nghi. Cái đó là ở tài lành nghề của nhà văn phải tự biết hạn định lấy.
Luận giả thứ tư nói những chữ về cách trí triết học nên theo Tàu, còn các chữ thường nên tùy tiện mà dùng. Chắc rằng chữ nho dịch các danh từ về cách trí triết học của Âu châu nhiều chữ dịch đúng và gọn ghẽ lắm, tiếng ta không tài nào dịch được bằng, và mượn ngay tiếng Tây ra cũng khó cho được thanh thoát; ta nên mượn của Tàu mà dùng, nhưng cũng phải lựa lọc mới được, chữ nào có thể theo tiếng Tây được nên theo, chứ nói nhất thiết, mượn chữ nho cả thì cũng quá.
Ấy ý kiến của nhiều người về sự đường chữ nho còn phân vân như vậy. Muốn đặt phép tắc nht định cho biết dùng chừng nào là phải, chừng nào là quá, thì khó lắm. Cái giới hạn đó phải để tùy nhà làm văn ước lượng lấy, dùng thế nào mà lời văn được thanh thoát là vừa, dùng thế nào mà lời văn phải trắc trở là quá. Phải đương khi viết văn mới cân nhắc được, không thể đặt lệ trước được.
Vậy chỉ nên khuyên các nhà văn nên cẩn thận về sự dùng chữ: tùy mỗi lối văn nên dùng nhiều hay dùng ít, phải chọn những chữ thật đích đáng, vừa gọn ghẽ, vừa trang nhã, vừa dễ đọc, dễ nghe, mà cốt nhất là đúng với cái nghĩa nên dùng, xứng với cái ý cầu văn; nếu bạ đâu dùng đấy, làm cho câu văn bề bộn những chữ vô ích, hoặc lời Nôm đã đủ gọn ghẽ mà còn pha thêm chữ vào cho phiền, hoặc dùng những chữ sáo tầm thường không hay bằng Nôm, đều là quá đáng cả. Văn nào như vậy là văn không thông thoát, người đọc tất không ưa, và người làm văn ví sành nghề cũng tự biết.
Song sự dùng chữ tuy không có phép tắc nhất định, mà cũng không ngoài mấy lệ thường như sau:
Phải tùy tính cách và trình độ bài văn. Thế nào gọi là tính cách văn? Văn có nhiều lối đã đành, mà văn cũng có nhiều hạng. Có hạng văn phổ thông nói những sự tầm thường cho ai ai cũng dễ hiểu dễ biết, như văn chép tin tức trong các nhật báo. Văn ấy thì cần gì phải dùng đến chữ nho nhiều? Có hạng văn t tình, du hí, khôi hài đã cao hơn hạng trên một tầng và phải có ý vị lý thú mới hay, tất nhiều ý lời ta nói không hết, nhiều cảnh tiếng Nôm tả không thấu, phải mượn răm ba chữ nho cho nó nổi ý nghĩa, chỉnh lời văn và khỏi tục tằn: như tả người anh hùng thường dùng những chữ can đảm, chí khí, khảng khái, oanh liệt, v.v..., tả người tài hoa thường dùng những chữ nho nhã, phong lưu, thông minh, tun tú, v.v... lại muốn nói đến cái bụng người ta mưu muốn những sự to lớn, mong mỏi những việc cao xa tết phải dùng đến như hoài bão v.v... ấy đại loại hạng văn này phải mượn chữ như vậy, phần nhiều cũng là những chữ nho thường dùng cả. Thợ vẽ ta có cái lối gọi là “điểm nhỡn”, nghĩa là khi vẽ bức tranh người, các phần vẽ xong cả rồi duy có hai con mắt là chưa, nên tuy vẽ đẹp đến đâu coi vẫn chưa có tinh thần; bấy giờ người thợ mới điểm hai con ngươi, tức khắc trông bức tranh nổi ngay và coi như có vẻ linh hoạt. Trong lời văn Nôm cũng vậy, phải tùy chỗ mà đặt một vài chữ nho cho xứng đáng, tức như cái lối “điểm nhỡn” của thợ vẽ; không thời lời văn lạt lẽo và không khỏi tục tằn.
Lạị có hạng văn kỹ thuật, nghị luận, hạng này cao hơn hạng trên một tầng nữa. Văn kỹ thuật tức là văn sử; mà làm sử phải có ngọn bút nghiêm trang, đời xưa cho sử là có quyền bao biếm, nghĩa là phán đoán khen chê các công việc người đời, tất phải công bằng lắm mới được. Theo nghĩa đời nay, sử tuy không có cái ý nghiêm khắc như vậy, nhưng những việc đã đáng chép đáng thuật để lưu truyền lại, không phải là việc tầm thường, tất có cái ý nghĩa sâu ở đó, vậy văn kỹ thuật, lời phải trang nghiêm, phải xứng đáng mới được; rất kỵ là những giọng hoặc tục tĩu sỗ sàng, hoặc tầm thường quá, vì tầm thường cũng không được, bình dị thì được, tầm thường với bình dị có khác nhau. Nay mun dùng rặt tiếng Nôm cả không dùng chữ, có thể tránh được những điều đó không ? Chắc rằng không, vì Nôm thường là tục, quá Nôm không khỏi tục. Thí dụ như thuật việc vua ra Bắc kỳ, nếu nói: “Ông vua Việt Nam đi chơi Bắc kỳ, nay đã về Kinh rồi”, nghe nó sống sượng quá, như lời người ngoại quốc mới học tiếng ta vậy, không phải là thể văn kỹ thuật một việc lớn trong nước. Nếu dùng mấy chữ nho thông dụng về những cơ hội đó mà nói: “Hoàng thượng ngự giá Bắc kỳ, nay đã hồi loan”, có phải là lời văn trang trọng và có sự thể biết bao! Những chữ Ngự giá, hồi loan là những chữ thường dùng về việc vua di lại, nhà làm văn Nôm tất phải biết. Hoặc giả cho cách làm văn thế là phiền, nhưng đã gọi là “văn” tất phải có “phiền” một chút, nếu cứ trơ như không thì dầu không tục cũng không văn được. Và ngay tiếng Tây cũng vậy, cũng một ý mà cũng có nhiều hạng chữ, cao thấp khinh trọng khác nhau, phải tùy chỗ mà dùng. Trong tiếng ta, đại để nghĩa thường bao giờ nói bằng Nôm cũng đủ, đến cái ý nghĩa đã cao cao một chút thì tiếng Nôm thường hụt không tới kịp, tất phải mượn ít nhiều chữ mới diễn được hết ý.
Đến như văn nghị luận cũng vậy. Nghị luận là đem ý kiến ra bàn bạc tức là chọi ý kiến với nhau, lời văn tất phải tinh tường gãy gọn mới được; rất kỵ là những tiếng ám nghĩa, những giọng hàm hồ, hiểu ngược cũng được, hiểu xuôi cũng được, như vậy thì lời bàn sao cho xác lý? Tiếng ta gọi là tiếng “Nôm”, nghĩa là tiếng thông thường trong dân gian thường có nhiều tiếng hàm hồ, vì người thường cứ nghe lẫn nhau mà biết, không hay định nghĩa được phân minh. Dùng vào văn nghị luận tất phải mượn thêm chữ nho để diễn những ý nghĩa mà tiếng ta nói không hết được. Những ý nghĩa ấy trong một bài nghị luận thường nói đi nhắc lại nhiều lượt, bàn ngược xét xuôi nhiều lần, nếu không có chữ gọn ghẽ mà nói, phải diễn ra lời Nôm lôi thôi, thì thật là phiền cho sự nghị luận vô cùng. Ví dụ bàn về sự người mình bắt chước và hóa theo người Âu châu là hay dở thế nào, nếu phải nói dài như vậy mà nhắc đi nhắc lại đến mười lần thì phiền biết dường nào? Chi bằng dùng một chữ “âu hóa” tiện biết bao nhiêu? Đại để văn kỹ thuật và văn nghị luận đã là hạng văn trang nghiêm thiết thực tất phải mượn chữ nho nhiều hơn hạng văn đạo tình tiêu khiển trên kia.
Sau nữa đến văn thuyết lý giảng học, hạng ấy là hạng cao hơn nhất, xưa nay người mình không dùng tiếng Nôm bao giờ. Ngày nay nghiệm ra thấy tiếng Nôm cũng có đủ tư cách mà dùng về các lốì văn đó được, nhưng phải mượn chữ nhiều hơn các hạng trên. Điều đó không những một tiếng Việt Nam mình mới thế. Dẫu các tiếng Âu châu về hạng văn thuyết lý giảng học cũng không thể không mượn cổ văn cổ điển mà đủ dùng được. Tiếng Âu châu thì mượn chữ Grec (Hi Lạp), chữ Latin (La Mã), là hai cái văn cổ điển của các nước Tây phương. Tiếng Việt Nam mình tất phải mượn chữ nho, là cái văn cổ điển của Đông phương ta. Văn thuyết lý giảng học lại càng trọng trang nghiêm lắm: không nói rằng tiếng Nôm mình không tài nào đủ mà diễn được những lý tưởng học thuyết mới, cho dẫu một đôi khi cố tìm tòi mãi, c đàn diễn mãi ra cũng có thể tiệm tiệm đủ được, nhưng thường không tránh khỏi cái tệ Nôm na. Nói những sự cao xa mà dùng lời Nôm na quá, không những không được gọn ghẽ thanh tao, mà sao cho xứng đáng! Các tiếng Âu châu, kể còn giàu hơn tiếng Việt Nam mình biết bao nhiêu, mà về đường học thuật nghĩa lý phần nhiều chữ dùng là gốc tự grec, latin ra cả: cứ giở ngay một quyển tự điển Pháp, bất cứ trang nào, nhìn qua một lượt, có phải nhan nhản những gốc tự grec tự latin không? Còn chữ gì tầm thường bằng chữ individu (mỗi người, người một, cá nhân); thử tra xem gốc tự đâu? Gốc tự chữ La Mã individuus, nguyên nghĩa là cái gì không phân dời ra được, trọn vẹn một mình, tức là riêng một phần, biệt một người, không dính dáng với phần khác, người khác. Lại chữ société (xã hội) là do chữ La Mã societas; chữ autocrate (vua chuyên chế), do chữ Hi Lạp autokrates, bởi hai chữ autos nghĩa là tự mình, kratos nghĩa là quyền lực, quyền lực tự mình, muốn làm gì thì làm; chữ autonomie (tự trị), là gồm hai chữ Hi Lạp autos, tự mình, nomos, pháp luật, pháp luật tự mình v.v. Ai có thời giờ cứ thử ngồi giở chơi một quyển tự điển Pháp xem có phải trang nào cũng đầy những chữ như vậy không. Tiếng Pháp mượn chữ của La Mã Hi Lạp mà phát âm ra giọng Pháp, có khác gì tiếng ta mượn chữ nho mà phát âm ra giọng ta không? Người Pháp nói autocrate mà không nói autokrates, có khác gì ta nói chuyên chế mà không nói tchoen-tche (theo tiếng quan thoại Tàu) không? Đó còn là tiếng thường thường, đến những tiếng nội' về nghĩa lý cao, thì lại mượn của Hi Lạp La Mã nhiều hơn nữa. Như : philosophie (triết học), là do chữ Hi Lạp philos, người bạn, người hay ưa sự gì, sophia, sự nghĩa lý, điều khôn ngoan tức là người ưa xét những điều nghĩa lý khôn ngoan; esthétique (mĩ học, học về sự đẹp), là do chữ Hi Lạp aistêtikos; métaphysique (siêu hình học, thuần lý học) do chữ Hi Lạp metaphỵsica, chính nghĩa là học sau những vật có hình, tức là học về những sự trên, ngoài hình thức, về các lẽ mầu nhiệm siêu việt của trời đất; géographie (địa dư học), bởi hai chữ Hi Lạp geo, đất, graphein, tả, vẽ, nghĩa là hình dung tả vẽ về đất; v.v... Ấy bao nhiêu những chữ về học lý đều do cổ văn mà đặt ra; có ai kêu rằng tiếng Pháp phải đi mượn chữ ngoài nhiều không? Coi dó thì biết sự mượn chữ cổ văn là những chữ đã thành thuộc lão luyện rồi dể diễn những điều nghĩa lý cao xa, không có ngại gí cả. Càng mượn được càng hay, miễn là mượn cho cẩn thận thì thôi. Tất những chữ mới mượn nghe có lạ tai, nhưng vì những sự vật những nghĩa lý của các chữ ấy chỉ ra cũng là mới cả, xưa nay chưa từng biết bao giờ, đã có tên đâu mà gọi thường? Đến khi những chữ nghĩa lý, những sự vật ấy trong trí đã quen rồi, thì chữ dùng để gọi nó ra ta nghe cũng không lấy làm lạ nữa. Trước kia đã từng lấy sự đẹp làm một môn học đâu, mà ta thường dùng chữ “mĩ học” (esthétique). Trước kis ta đã từng phân biệt đâu trong tâm giới người ta có hai phần, một phần “ý thức” (conscience) là cái phần sáng suốt để cảm biết các vật các lẽ, một phần “tiềm thức” (subconscience) là cái phần u âm, ở dưới ý thức gồm những tư tưởng cảm giác phảng phất mập mờ, trong khi mơ ngủ thường xuất hiện ra trong trí người ta; ta đã từng phân biệt đâu như vậy mà thường dùng đến những chữ “ý thức” và “tiềm thức”? Chữ chẳng qua là cái áo bọc, cái tên gọi những tư tưởng cùng sự vật; có biết đến sự vật ấy, có nghĩ đến tư tưởng ấy thì mới tìm tên gọi cho xứng đáng, tìm áo bọc cho vừa vặn. Học giả là người hay sưu tầm nghiên cứu những điều hay lẽ phải, ý mới vật lạ, c diễn giải ra lời nói câu văn mà đem công b ra trước mọi người, tất lúc mới đầu nhiều người chưa quen chưa hiểu lấy làm lạ mắt lạ tai, nhưng dần dần đã hiểu đã quen rồi thì có lạ gi? Chữ mới chỉ mới một lúc đầu thôi; nếu là cần dùng thiết thực thì chẳng bao lâu thành phổ thông ngay.
Dùng một lần còn mới, dùng vài ba lần thì nghe dã quen tai, đến mười lần thì đã cũ rích vậy. Mười năm trước ai từng nói đến những tiếng như văn minh, xã hội? Thế mà bây giờ những tiếng ấy thông dụng rồi. Ngày nay những tiếng như quan niệm, thái độ nghe còn lạ tai, an trí ít lâu nữa lại chẳng thành những tiếng thường dùng? Tiếng Việt Nam ta đối với chữ Tàu vốn có cái hấp lực” rất mạnh, cốt là bây giờ dùng chữ nào phải định nghĩa phân minh chữ ấy là đủ.
Nay nói riêng về sự mượn những danh từ khoa học mới, phải nên phân biệt như sau này.
Đại khái các môn học mới của Thái Tây ngày nay chia làm hai hạng: một hạng chuyên học về “vật giới” (sciences pliysiques et naturelles) nghĩa là những vật có hình trong thế gian, như hóa học, địa chất học, động vật học, v.v.; một hạng chuyên học về “tâm giới” (sciences morcdes), nghĩa là những sự vô hình thuộc về tâm trí người ta, như triết học, mĩ học, tâm lý học, v.v
Muồn đặt một lệ chung đại khái làm bằng thì có thể nói rằng bao nhiêu những chữ về “tâm giới” nên mượn chữ nho nhiều hơn, vì chữ nho về phần ấy vốn giàu lắm và thâu nhập vào tiếng Nôm cũng đã nhiều; còn những chữ về “vật giới”, thì phần nhiều hoặc nên tùy hình chất mà đặt tên Nôm cho dễ gọi, hoặc nên theo chữ Tây mà phiên dịch ra cho tiện hơn, khi nào cần hãy nên mượn chữ nho. Song lệ đó cũng không thể cho là nhất định hẳn được; khi mượn chữ đặt tiếng phải tùy nghi châm chước, cầu cho thích đáng.
Ấy là kể qua tính cách các hạng văn ưa dùng chữ nho ít nhiều thế nào. Đến trình độ văn cũng là do ở tính cách ấy mà ra, nghĩa là tùy thể văn mà trình độ cao hoặc thấp, hoặc trung bình. Lối văn phổ thông nói những điều tầm thường cho phần nhiều người dễ hiểu, thì không cần phải mượn chữ nho mấy tý, chỉ những chữ nào đã thành thuộc lắm mới nên dùng mà thôi. Thuộc về lối đạo tình tiêu khiển, thì tiếng Nôm khá giàu, các thơ Nôm, truyện Nôm, ca Nôm, vè Nôm, đã đầy những tiếng những chữ sẵn; lại tục ngữ ca dao cũng là cái kho rất phong phú, nhà văn bất tất phải dùng chữ nho cho lắm, chỉ thỉnh thoảng điểm một vài chữ nho cho nó nổi câu văn mà thôi. Văn kỹ thuật nghị luận, đã vào bậc cao rồi, như trên kia đã nói cần phần phải mượn chữ nho nhiều hơn các hạng trên thì lời văn mới được trang nghiêm và khỏi sốc nổi. Đến văn thuyết lý giảng học là văn cao hơn nhất, mượn chữ nho lại phải nhiều hơn cả, vì tiếng Nôm quyết không đủ dùng.
Coi đó thì biết trình độ văn càng cao bao nhiêu lại càng cần dùng chữ nho bấy nhiêu. Đó cũng là lẽ cố nhiên, vì văn Nôm xưa nay chỉ dùng vào bậc phổ thông mà thôi, từ văn nghị luận trở lên các cụ ngày xưa không từng viết Nôm bao giờ, cho nên trình độ văn càng cao lên lại càng phải mượn chữ nhiều mới đủ dùng.
Cách dùng chữ nho trong văn quốc ngữ phải tùy trình độ văn đã đành rồi, trong khi dùng chữ các nhà làm văn lại phải cẩn thận về cách kén chọn lựa lọc nữa, dù lối văn nào cũng vậy. Chữ nho có chữ tục, có chữ nhã, có chữ điểm vào lời Nôm dễ nghe, làm cho tôn trọng lên, có chữ dùng lẫn với tiếng ta sông sượng khó nghe, có chữ đặt vào đoạn này thì xứng đáng mà để vào đoạn kia thì bề bộn, khéo biết dùng cho thanh thoát là tài riêng của nhà văn, không thể định trước được. Người làm văn khéo thì chữ dùng hồn nhiên, nghĩa là chải chuốt trơn tru, đặt vào lời Nôm, như hóa thành Nôm, để vào chỗ nào như in vào đấy, tưởng bỏ ra mà đặt chữ khác thay không được.
Phàm dùng chữ nên định nghĩa cho rất phân minh, nhất là các danh từ mới. Danh từ mới là diễn dịch các nghĩa lý mới, dùng phải đường và trúng nghĩa thì hay lắm, nếu hàm hồ hỗn độn thì không gì hại bằng, vì làm lầm người sau cứ theo đó mà dùng sai đi. Chữ mới phần nhiều là của Tàu dịch hoặc định nghĩa theo tiếng Âu châu, nhưng chữ Tàu vốn phong phú, xếp đặt dễ và khéo, vừa đúng nghĩa, vừa gọn ghẽ, lại vừa hồn nhã, có chữ hay hơn nguyên văn Tây nhiều. Nhà văn ta phải thuộc các chữ mới mới hiểu rõ được. Cho nên nhiều nhà nho cũ thông chữ nho mà không hiểu được các chữ nho mới đó, có khi dùng cũng sai lầm như người không biết chữ vậy.
Tư tưởng với văn tự phải tiến ngang nhau: có tư tưởng mà không đủ chữ nói, như phần nhiều các nhà Tây học ngày nay cũng phiền; có chữ dùng mà không hiểu các nghĩa lý mới, dùng chữ hàm hồ, như phần nhiều các nhà cựu học bây giờ, cũng bực.
Thường nghe nhiều người mới đọc qua mấy quyển tân thư Tàu như tập m băng của Lương Khải Siêu hay tập Du ký của Khang Hữu Vi, thuộc được ít nhiều chữ mới, chưa hiểu rõ ý nghĩa thế nào, cầm bút viết tất dùng những chữ: thiên diễn, đào thải, tiêu cực, tích cực, khách quan, chủ quan, v.v... bấy nhiêu chữ đều có nghĩa nhất định cả, mà không hiểu rõ thường dùng lộn bậy chẳng đâu vào đâu; lại nhiều người hay chứng dẫn các tên người, vơ váo chẳng ăn thua vào đâu: bất cứ nói chuyện gì tất phải gọi đến tên ông Nã Phá Luân (Napoléon) ông Tỉ Ti Mạch (Bismark)y ông Kha Luân Bố (Chrỉstophe Colomb), ông Đạt Nhĩ Văn (Darwin), ông Lư Thoa (Rousseau), ông Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu)y ông Ti Tân Tặc (Spencer), kéo một thôi một sốc các ông Thánh mới ra, thật là vô vị quá. Không hiểu chữ mà dùng chữ loạn không gì hại bằng. Cho nên trong khi mượn chữ mới của Tàu phải hiểu rõ những chữ ấy chỉ sự gì vật gì; phải định nghĩa cho phân minh, rồi chỉ dùng về một nghĩa đó mà thôi. Có vậy thì sự mượn chữ mới có lợi, không thời hại cho quốc văn nhiều lắm.
Còn một điều nữa về các tên đất tên người: nên dịch theo tiếng Tây hay bắt chước chữ Tàu? Cứ lẽ thời theo tiếng Tây cả là phải lắm, chỉ trừ những tên người tên đất riêng của Tàu thì nên đọc theo chữ nho mà thôi. Nhưng có nhiều tên đất tên người ta đọc theo của Tàu đã quen rồi (Như Âu châu, Á châu, nước Pháp, nước Đức, ông Nã Phá Luân, ông Hoa Thịnh Đốn) không ai là không dùng, và không ai là không hiểu. Vả những tên ấy dịch âm ra giọng mình dễ nghe hơn là đọc ngay giọng Tây: trong một bài quốc văn, “Âu châu” đọc chẳng dễ nghe hơn là Europe, “Đại Tây Dương” hơn là Océan Atlantique ư? Vậy nay tưởng có thể định một lệ chung như sau này: trừ tên các đại châu, các bể lón, cùng mấy cái sông cái núi lớn trong thế giới, đọc theo chữ nho đã quen lắm rồi thì cứ đọc theo như vậy, có muôn rõ khi viết nên chua tên ấy ở bên cạnh còn hết thảy tên người tên đất khác trong sách tây nên đọc theo viết theo tiếng Tây cả cho có bằng cứ và dễ tra khảo. Ngày nay, dầu người không biết chữ Tây mà chỉ biết quốc ngữ đọc văn Tây cũng được, có sai cũng không sai mấy, còn hơn là theo hẳn chữ Tàu, vì Tàu đã theo tiếng nước khác, mình lại theo Tàu, thành ra cách mấy lần, còn biết dò đâu mà tra cứu được. Như nói: “Dublin, Manchester, Edimbourg là ba tỉnh thành lớn của nước Anh”: tên “Anh” đó tuy là đọc theo chữ Tàu mà đã thông dụng lắm rồi, ai cũng biết là Angleterre, cứ nên dùng như vậy, vừa tiện vừa dễ hơn; còn tên ba thành kia thì ít người biết, nên viết theo chữ Tây, dầu đọc có sai tiếng Anh ít nhiều mà còn có nguyên văn, muốn tra trong địa đồ cũng dễ; hơn là đọc theo Tàu: Đô Bội Linh (Dublin) Mãn Triệc Đức Nhĩ (Manchester), Ai Dính Bộ Nhĩ (Edimbourg), tuy âm vận cũng vẫn dễ nghe, hợp với giọng ta hơn, nhưng không có chữ Tây thì còn ai biết là tên những tỉnh thành nào? Nếu có sợ những người không thuộc văn Tây gặp những tên Tây như vậy giữa bài văn quốc ngữ bị ngắt lại không đọc luôn được, thì dưới mỗi tên Tây nên ngoặc hai cái (...) và chua âm ra chữ quốc ngữ, cũng không phiền gì: như Manchester (Mang-xet-te), Edimbourg (E-đinh- bua), v.v...
*
Văn quốc ngữ đã không dời được chữ nho, không thể bỏ chữ nho mà thành được, thì sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ là một lẽ tất nhiên. Duy phải biết cách dùng cho phải đường. Trở lên là kể ra mấy cái lệ chung các nhà văn nên chú ý. Đó cũng là những điều đại khái mà thôi, còn việc dùng chữ phải tùy cái tài cái khéo của nhà văn, không thể đặt phép tắc nhất định được. Dùng chữ khéo có thể làm cho quốc văn mỗi ngày một trang nghiêm phong phú thêm lên.
Bài này chỉ bàn riêng về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ mà thôi. Chắc văn quốc ngữ cũng phải mượn của văn Tây nhiều, vừa mượn chữ, vừa mượn phép làm văn; nhưng đó lại là một vấn đề khác.
*
Làm người Việt Nam phải nên yêu, nên quí tiếng nước mình. Phải đặt quốc văn của mình lên trên cả chữ Tây chữ Tàu. Nhưng yêu quí tiếng nước mình không phải là ruồng bỏ tiếng nước ngoài. Yêu quí tiếng người mình là phải khéo lợi dụng tiếng nưc ngoài để làm cho tiếng quôc âm mình giàu có thêm lên. Cho nên những người vì “thương tiếng nước nhàmà muôn “bài trừ chữ Hán” là tỏ ra ý kiến thấp hẹp vậy.
Than ôi! Thương tiếc nước nhà, thương tiếng nước nhà cũng năm bảy đường. Thương mà phải đường ra thì ích lợi cho quốc văn biết dường nào. Thương mà sai đường thì không những không lợi mà lại hại cho quốc văn hơn là ghét bội phận. Tôi đây chính là một người nhiệt thành thương tiếng nước nhà, lâu nay đã tự nguyện cúc cung tận tụy một đời để gây dựng cho tiếng ấy thành văn chương, cho nước ta có một nền quốc văn đứng riêng được một cõi, cho người mình khỏi phải cái cực chung thân cùng kiếp đi học mướn viết nhờ. Lắm lúc bình tâm tĩnh trí, tự mình hỏi mình nên dùng cách nào cho đạt tới mục đích đó. Nghĩ cùng mà không tìm được một cách nào, ngoài cái lề lối của ông cha để lại. Nhìn ngược, nhìn xuôi, trông xa, trông gần, chỉ thấy rừng “nho” man mác, là rậm um tùm, muôn thoát ra ngoài mà không thoát được, đi mãi không cùng. Bấy giờ mới tĩnh ngộ mà biết rằng người mình sinh trưởng trong góc rừng nầy đã mấy mươi đời, những khi gió táp mưa sa được ẩn thân ở dưới cây cao cỗi lớn, nay muôn thoát ly mà ra ngoài, bông lông trong đồng rộng bể khơi sao đành? Chi bằng ta cứ nương náu đây, mở rộng phá quang, đặt đường xẻ li, cho tiện sự giao thông, để đón lấy gió Âu mưa Mỹ, mà ra công ráng sức tài bồi cho cái đất cũ mấy nghìn năm này có ngày được rạng vẻ phong quang, tốt tươi đẹp đẽ. Ai ơi! Xin cố gắng lên, nhưng chớ nên thương quẩn xót quanh mà làm cho người ta thiên lòng rối trí. Có thương tiếng nước nhà, xin thương cho phải đường./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét