Khiemnguyen

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Các giai đoạn phát triển của báo chí VN trước năm 1945



Từ bước tiến tới ca báo giới Việt Nam
 đến nhng vết biến thiên ca quốc văn trên trang báo, chí


Hoa Bằng
Sau cuộc Nga, Nhật chiến tranh (1904 -1905), x ta, khong năm 1907-1908, nổi dậy cái phong trào ruồng khoa cử, chuộng quốc văn. Báo c quốc văn lần lượt “khai sinh” vào “sổ” ngôn luận từ đó.
Trước đây độ 34 năm, làng báo Việt Nam hãy còn như “con n hiếm. Toàn xứ lác đác mới có vài t báo do chính phủ lập ra, chỉ có tính cách là những tờ công báo, làm cơ quan rao truyền công việc cai trị của nhà nước.
Trong Nam, có tờ Gia Định báo (li năm 1865) ca nhà bác học Trương Vĩnh Ký, là một tên lính tiên phong trong đội quân báo chí x này. Sau đến những t Nông cổ mín đàmLục tỉnh tân văn cũng đều là những tay kỳ cựu cả.
Bc kỳ, hồi đó, trừ my tờ báo viết bằng chữ Pháp do người Tây chủ trương như Courrier d’HaiphongAvenir du Tonkin, về phần người Nam mới chỉ có một tĐăng cổ tùng báo viết bằng chữ hán và t Đại Nam đồng văn nht báo có một phần viết bng quốc văn.
Tờ Tùng báo do ông Nguyễn Văn Vĩnh làm ch bút (1908) chính là những nhát cuc khai khoang” trong làng báo quc văn ở Bc kỳ.
Sau đó, những tờ Đông dương tạp chíTrung Bắc tân văn mi dần dần lơ thơ mọc trong địa hạt báo giới Nam việt.
Thời gian qua. Làng báo ta nay đã ngày một đa đinh và có v sm uất, thịnh vượng hơn trước.
Dựa vào báo chí, ta nhn thấy trong vòng hơn 30 năm nay, quốc văn đã biến thiên nhiều lắm.
Có th chia làm từng thời kỳ đ đánh du những vết biến thiên y.
Thời kỳ phng theo củ pháp và văn th tàu.
Đó là thời kỳ đầu tiên của làng báo ta. Trong những cây bút quốc văn by gi, trừ một vài nhà đặc tây học viết vần theo lối tự nhiên, gin dị nhưng không kêu ra, hầu hết các nhà báo có nho học đương thời đều viết theo văn th tàu c. Từ cú pháp đến điệu văn, họ đều rập theo li u. Đồng thời họ lại gieo giắc vào quốc văn những thành ngữ và điển tích trong sách chữ hán: Nhạn sa, cá lặn; ngm gió, cợt giăng; bạn với Lưu Linh; con thuyền Xích Bích...
Còn các tân văn tiu thuyết? Hầu hết dịch theo tiểu thuyết tàu mà đăng lên báo. By giờ họa hoằn mới có một “sản phẩm” như cuốn Trần Hưng Đạo vương truyện ca ông Phan Kế Bính. Nhưng nội dung truyện này, từ hành văn cho đến b cục, lại theo đúng hệt khuôn sáo của tàu.
Thời kỳ thâu thái nhng danh từ mới
T năm 1907 tr đi, sau những cuộc cđộng đi mới, người mình chịu ảnh hưởng của những cun sách do các nhà tiên tiền trong nước viết bằng chữ hán như Văn minh tân học sách, Nam quc giai sự, Nam quốc nhân truyện, Quốc dân độc bản thượng biênhạ biên (sách trường Bác cổ s A. 174) đã bt đầum quen với các danh từ mi: bán khai, thực dân, git chng, kinh tế, lập hiến chính thể, cộng hòa chính thể…
Hồi Âu chiến trước (1914 -1918), tờ Nam Phong ra đời (N. P. s 1 ra ngày ler Juillet 1917) lại tiếp tục làm công việc truyền bá danh từ mời ấy. Việc làm này của Nam Phongảnh hưởng rộng hơn, vì đã có tờ báo làm cơ quan, lại ly tiếng mẹ đẻ làm lợi khí, nên những danh từ về triết học, khoa học, văn học được nhp cảng khá nhiều.
Thời kỳ lượm lặt thành ngữ và mô phỏng cú pháp của văn Tây
Trên tờ Thực nghiệp dân báo, người ta đã mạnh bạo ứng dụng những thành ngữ trong pháp văn, như: nói vịt, xây lầu bn Y-pha- nho.., có khi lại theo li tây mà đặt chữ nếu, chữ dẫu đu câu phụ đi theo sau câu chính.
Thời kỳ cải cách thể văn xuôi
Trưc hết, t Đông y ca Hoàng Tích Chu, có thn xuôi, nht là lối văn viết báo thường hay chú trọng về lối biền ngẫu đi nhau: chữ lựa cho thật trọi, vế gióng cho thật cân. Đọc lên, người ta thấy có âm điệu kêu ròn vì khéo hòa hiệp bằng trc, như đọc một bài tứ lc.
Hồi năm 1926, Hoàngch Chu từ Pháp về nước nhà, mang theo cái hoài bão cải cách lối văn viết báo. Trước Ngọ báo, sau Đông Tây (vào khoảng 1932), Tích Chu đã mạnh bạo thực hành lối văn xuôi mi: viết theo điệu văn tây từ ngữ thể đn cú pháp. Vì Tích Chu đi cực đoan, nên câu văn không khỏi nhm nhẳn gióng một và lc cc. Nhưng sau cuộc cải cách ấy, văn giới và báo giới không phải không chịu ảnh hưởng. Một chứng cớ: từ đó, lối văn đi nhau dần dần khuất bóng trên các mặt báo.
Thời k cải cách văn vần
Từ năm 1933, đi kèm vời những tiếng hài c trào phúng, li thơ mi, tức th thơ tự do, được thành lập. Li thơ này chịu ảnh hưởng rất nhiu của thơ Pháp, nên từ cách dùng chữ, đặt câu, đến lối ngng hơi và gieo vần, có thể nói, hoàn toàn theo tây c. Trong phái thơ mi, trừ một số ít có chân tài đáng k ra, phần nhiều đã lạm dụng cái danh nghĩa thơ tự do mà làm cho nó thành tản văn hóa với những chữ cầu kỳ không đúng nghĩa và những ý rỗng tuếch nhưng ngớ ngẩn, vu vơ... Dẫu vậy, nhờ có cuộc cảich văn vần này, thơ ca ta nay đã đ sáo, đỡ bó buộc, đ chật hẹp, và thêm vào những ý mới, lời đẹp và giọng êm.
Báo giới ta cũng đã tiến bộ! Quốc văn ta cũng đã tri nhiều bước biến thiên.
Cuộc đời là một cuộc tiến. Có tiến mới sống còn được. Báo gii và quốc văn cũng phải chuộng một công lệ y.
Làm cho quốc văn ngày một tiến, ngày một đến được tận thiện, tận mỹ, công việc ấy, trách nhiệm ấy đương trút trên vai chúng ta và những người sau chúng ta./.

Tri Tân tạp chí
(Số 20, ngày 24 Octobre 1941)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét