Ảnh hưởng của văn chương Pháp trong văn chương
Việt Nam
|
Lê Thanh
|
Một người dù bi quan đến đâu cũng phải công nhận rằng trong khoảng vài mươi năm nay văn chương Việt Nam ta đã tiến một cách mau chóng lạ thường.
Như vậy là vì văn chương ta sau khi gây được một cáí nền hoàn toàn Á Đông đã được chịu một cách sâu xa cái ảnh hưởng của văn chương Tây phương, đúng hơn, văn chương Pháp.
Nay ta thử soát lại xem văn chương ta đã thâu nhận được của văn chương Pháp những gì.
Nhìn lại văn học ta về đầu thế kỷ hai mươi, ta có một viễn cảnh rất buồn rầu. Trong rừng cây
cối, qua mấy nghìn năm, không còn đủ sinh tố để sống. Nho học già cỗi, văn chương ta cũng theo nho học mà tàn. Tuy vậy, về phương diện tinh thần và thể cách, văn chương ta còn in dấu vết rất rõ rệt của cái văn đã tàn ấy.

Vì vậy trong văn chương ít trữ tình.
Nói đến tình cảm, đến những sự yêu đương của mình làm sao, giữa một nơi mà chính cái thân mình cũng không đáng kể.
Một con đường văn chương đã vạch sẵn
Cái kết quả tự nhiên là cái thành kiến nô lệ. Các văn gia thi sĩ người nọ bắt chước
người kia. Trải bao năm người ta vẫn theo nhau vịnh sông, núi, thằng bồ
nhìn, chị hằng nga, chén ruợu, thu, đông...
Ta cũng như phần nhiều người Á Đông
viết văn theo sức cảm thụ của mình, cảm giác phát động đến đâu, ta viết theo đến đấy. Thành ra
không có sự dàn xếp theo
lý luận.
Một điều đáng chú ý là nhà văn ít khi nhận đến những cái tỉ mỉ. Nhìn
đối tượng bao giờ cũng nhìn một cách tổng hợp.
Tả cảnh rừng, núi, cỏ cây, hoa lá, nhà, rợ,
chú tiều, lòng
nhớ nước mà chỉ phải dùng có dăm mươi sáu tiếng.
Một bài thơ có khác nào một bức tranh thủy mạc, với vài nét phác mà có đủ cả ánh giăng cây nước v.v.
Cái dở của những văn thơ ấy thường là sự luộm thuộm trong đặt câu. Ý tưởng và lời lẽ
không được minh bạch và chính xác.
Những thể loại cũng không được chia một cách rõ rệt, thể cách - trừ
một thể văn
thơ phỏng theo
đường luật
không kể - không nhất định.
Ta có thể kết luận
là văn chương ta thiếu tinh
thần khúc triết.
Tinh thần đại đồng thì hoàn toàn thiếu hẳn
Văn ta, theo quan niệm
xưa, hình như chỉ là một thứ dành riêng cho bực thượng lưu trong xã hội; bực
ấy làm văn, tỏ nguyện
vọng của mình và để riêng
mình hiểu.
Khi nào nhà văn ta nghĩ đến những hạng ở lớp dưới xã hội
thì lại cốt để ẩn trong ấy một cái gì của mình. Tôi muốn nói đến lối thơ khẩu khí.
Khi nói đến mình thì dụt dè chỉ dám chọn riêng những tình cảm được người ta đã
nói đến nhiều rồi. Vì vậy thiếu sự thành thực, một văn chương với những
đặc điểm kể trên phải là một thứ văn chương dùng riêng làm phương tiện tiêu khiển; thơ phú soạn ra chỉ để ngâm nga khi trà dư tửu hậu. Và bao nhiêu
người đáng lẽ phải gánh vác lấy cái nhiệm vụ “hướng dẫn
quốc dân”, phải đứng ra để chịu cái tiếng là một bọn ngồi không ăn dưng.
Ngày nay khác hẳn
Bắt đầu với Tản Đà, qua Song an, đến những nhà văn
tân học, cái trữ tình miên man giãi trên văn chương. Người ta khóc
than vì những nỗi đau thương, người ta lý tưởng những mối tình đã mất. Quốc gia, gần hơn nữa, gia đình đối với một vài người, không còn là gì nữa. Người ta phải sống cuộc đời riêng của người ta trước đã.
Ngày nay sau những sự sụp đổ ghê gớm ở thế giới, người ta đang bắt đầu trở lại sống cho gia đình và tổ quốc. Văn chương ta có lẽ lại đi ngược lại
con đường mình đang đi nghĩa là tự cái cá nhân ích kỷ đến chỗ gia đình và xã hội.
Về phương diện nghệ thuật ta có thể quả quyết nói rằng ta đã
đem về cho văn chương ta những phương pháp diễn tả khoa
học hơn.
Không còn cái lối nhìn đối tượng bằng con mắt bao quát để tả một cách lờ mờ một
cái gì mà mình có thể tả một cách tỷ mỉ.
Dưới ảnh hưởng của văn pháp, ta đã thêm được lối văn tả chân. Nhiều đoạn văn, nhiều quyển tiểu thuyết của ta ngày nay nếu được dịch ra pháp văn chắc cũng không kém
gì văn tây mấy, mà lại có nhiều chỗ tương tự với văn chươag pháp.
Bắt chước nhà văn Âu châu, ta đã bỏ hàng ngũ của ta, đi sâu vào xã hội để quan sát. Ta đi làm qnen với mọi lớp người
của xã hội, nghĩ với
họ, ước vọng với họ, sống cái đời hoàn toàn của họ.
Ngày nay ta có thể chỉ bất cứ một người Việt Nam nào mà nói: “Ô sao anh vô lý thế! Anh tưởng tôi không phải là anh!”.
Nếu có một điểm nhỏ đáng tiếc là trước kia ta đã bắt chước Tàu nhiều quá, hình như ngày nay ta lại bắt chước Tây nhiều quá. Có những người từ cách nghĩ cho đến cách dàn xếp ý tưởng nhất nhất cái gì cũng theo Tây cả. Thành ra ta có một thứ văn đọc
nghe rất ngây ngô.
Chúng tôi nói đến là nói vậy. Cái điều “quá” ấy rồi một ngày gần đầy sẽ mất hẳn.
Sẽ còn lại cho ta cái gì, một nền văn chương không tàu như trước không tây như một số nhà văn bây giờ. Nghĩa là
một nền văn chương đã nảy nở dưới sự dung hòa của hai ảnh hưởng văn chương Trung hoa và ảnh hưởng văn chương Pháp.
Và chúng ta có thể chờ rất nhiều ở nền văn chương ấy.
|
Tri Tân tạp chí
(Số 27, ngày 12 Décembre 1941)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét