Khiemnguyen

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Ảnh hưởng của văn chương Pháp trong văn chương Việt Nam



Ảnh hưởng của văn chương Pháp trong văn chương Việt Nam


Lê Thanh
Mt người dù bi quan đến đâu cũng phải công nhận rằng trong khong vài mươi năm nay văn chương Việt Nam ta đã tiến một cách mau chóng lạ thường.

Như vậy là vì văn chương ta sau khi gây được một cáí nền hoàn toàn Á Đông đã được chịu một cách sâu xa cái nh hưởng của văn chương Tây phương, đúng hơn, văn chương Pháp.
Nay ta th soát lại xem văn chương ta đã thâu nhận được của n chương Pháp những gì.
Nhìn lại văn học ta v đầu thế kỷ hai mươi, ta có một viễn cảnh rt buồn rầu. Trong rừng cây cối, qua my nghìn năm, không còn đủ sinh tố để sng. Nho học già cỗi, văn chương ta ng theo nho học mà tàn. Tuy vậy, về phương diện tinh thn và th cách, văn chương ta còn in dấu vết rất rõ rệt của cái văn đãn ấy.
Cũng như văn tàu, cái tinh thần đặc dị của văn ta là cái tinh thần chính thng. Đối với quốc gia, ta ch thấy văn gia biểu lộ cái lòng trung quân, ca tng một cách trực tiếp hay gián tiếp những hành động, những chiến công của nhà vua; một việc chính của nhà văn. Đi với gia đình, tinh thn gia tộc rt mạnh, người ta trước hết sống cho vua, sau đến gia đình, cuối cùng đến mình.
Vì vy trong văn chương ít trữ tình.
Nói đến tình cảm, đến những sự yêu đương của mình làm sao, giữa một nơi mà chính cái thân mình cũng không đáng k.
Một con đường văn chương đã vạch sẵn
i kết quả tự nhiên là cái thành kiến nô lệ. Các văn gia thi sĩ người nọ bt chước người kia. Tri bao năm người ta vẫn theo nhau vịnh sông, núi, thng bồ nhìn, chị hằng nga, chén ruợu, thu, đông...
Ta cũng như phần nhiều người Á Đông viết văn theo sức cảm thụ của mình, cm giác phát động đến đâu, ta viết theo đến đấy. Thành ra không có sự dàn xếp theo lý luận.
Một điều đáng chú ý là nhà văn ít khi nhận đến những cái tm. Nhìn đối tượng bao giờ cũng nhìn một cách tng hợp.
T cảnh rừng, núi, cỏ cây, hoa lá, nhà, rợ, chú tiều, lòng nhớ nước mà chỉ phải dùng có dăm mươi sáu tiếng.
Một bài thơ có khác nào một bức tranh thủy mạc, với vài nét phác mà có đủ c ánh giăng cây nước v.v.
Cái dcủa những văn thơ ấy thường là sự luộm thuộm trong đặt câu. Ý tưởng và li lẽ không được minh bạch và chính xác.
Những th loại cũng không được chia một cách rõ rệt, th cách - trừ một th văn thơ phỏng theo đường luật không k - không nhất định.
Ta có th kết luận là văn chương ta thiếu tinh thần khúc triết.
Tinh thần đại đồng t hoàn toàn thiếu hẳn
 Văn ta, theo quan niệm xưa, hình như chỉ là một thứ dành riêng cho bực thượng lưu trong xã hội; bực ấy làm văn, t nguyện vọng của mình và đ riêng mình hiểu.
Khi nào nhà văn ta nghĩ đến những hạng lớp dưới xã hội thì lại ct đ ẩn trong y một cái gì ca mình. Tôi muốn nói đến lối thơ khẩu khí.
Khi nói đến mình thì dụt dè chỉ dám chọn riêng những tình cảm được người ta đã nói đến nhiều ri. Vì vy thiếu sự thành thực, một văn chương với những đặc đim k trên phải là một thn chương dùng riêng làm phương tiện tiêu khiển; thơ phú soạn ra chỉ đ ngâm nga khi trà dư tửu hậu. Và bao nhiêu người đáng lẽ phải gánh vác ly cái nhiệm vụ ng dẫn quc dân”, phi đứng ra đ chịu cái tiếng là một bọn ngồi không ăn dưng.
Ngày nay khác hẳn
Bắt đầu vi Tản Đà, qua Song an, đến những nhà văn tân học, cái trữ tình miên man giãi trên văn chương. Người ta khóc than vì những nỗi đau thương, người ta lý tưởng những mối tình đã mất. Quc gia, gần hơn nữa, gia đình đối vi một vài ngưi, không còn là gì nữa. Người ta phi sng cuộc đời rng của người ta trước đã.
Ngày nay sau những sự sp đ ghê gớm thế gii, người ta đang bt đầu tr lại sng cho gia đình và t quốc. Văn chương ta có lẽ lại đi ngược lại con đường mình đang đi nghĩa là tự cái nhân ích kỷ đến chỗ gia đình và xã hội.
V phương diện nghệ thuật ta có th quả quyết nói rằng ta đã đem về cho văn chương ta nhng phương pháp diễn t khoa học hơn.
Không còn cái lối nhìn đi tượng bằng con mắt bao quát đ t một cách lờ mờ một cái gì mà mình có th t một cách t m.
Dưới ảnh hưởng của văn pháp, ta đã thêm được lối văn t chân. Nhiều đoạn văn, nhiều quyển tiểu thuyết của ta ngày nay nếu được dịch ra pháp văn chắc cũng không kém gìn tây mấy, mà lại có nhiều chỗ tương tự vi văn chươag pháp.
Bắt chước nhà văn Âu châu, ta đã bỏ hàng ngũ của ta, đi sâu vào xã hội đ quan sát. Ta đi làm qnen với mọi lớp người của xã hội, nghĩ với họ, ước vọng vi họ, sống cái đời hoàn toàn của họ.
Ngày nay ta có th chỉ bất cứ một người Việt Nam nào mà nói: “Ô sao anh vô lý thế! Anh ng tôi không phải là anh!”.
Nếu có một điểm nh đáng tiếc là trước kia ta đã bt chước Tàu nhiều quá, hình như ngày nay ta lại bt chước Tây nhiều quá. Có những người từ cách nghĩ cho đến cách dàn xếp ý tưởng nhất nhất cái gì cũng theo Tây c. Thành ra ta có một thứ văn đọc nghe rất ngây ngô.
Chúng tôi nói đến là nói vậy. Cái điều “quá” ấy rồi một ngày gần đầy sẽ mất hẳn.
Sẽ còn lại cho ta cái gì, một nền văn chương không tàu như trước không tây như một s nhà văn bây giờ. Nghĩa là một nền văn chương đã ny n dưới sự dung hòa của hai nh hưởng văn chương Trung hoa và ảnh hưởngn chương Pháp.
Và chúng ta có th ch rất nhiều nn văn chương y.

Tri Tân tạp chí
(Số 27, ngày 12 Décembre 1941)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét