“Ðêm đêm
Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu”
Mã Giám Sinh mua Kiều đem về Lâm tri, giao cho
mụ Tú Bà ở lầu xanh. Mụ bắt Kiều quỳ lạy trước bàn thờ thần Mày Trắng:
Kiều còn
ngơ ngẩn biết gì
Cứ lời lạy
xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng
buôn bán cho may
Ðêm đêm Hàn
thực ngày ngày Nguyên tiêu
Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai
(câu 939
đến 944)
“Hàn thực” có nghĩa là ăn thức nguội. Sau tiết
Ðông chí 105 ngày là tiết Hàn thực, nhằm vào ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Ðời
Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ là con của Hiến công nước Tấn, tránh loạn triều
đình phải lưu vong nhiều nước khác. Trên đường đi có nhiều lúc phải chịu đói
khát. Một hôm Trùng Nhĩ không ăn rau cỏ được, người đói lả. Bấy giờ, trong đám
tòng vong có Giới Tử Thôi bưng một bát cháo thịt dâng lên. Trùng Nhĩ cả mừng
vội ăn ngay, lấy làm ngon lắm. ¡n xong, hỏi: - Nhà ngươi tìm đâu được thế? Thôi
thưa: - Ấy là thịt đùi của tôi, tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ,
bề tôi trung bỏ thân để thờ vua. Nay công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải
cắt đùi tôi mà dâng công tử. Trùng Nhĩ sa nước mắt, nói:
- Ơn này, biết bao giờ ta đền đáp được. Sau Trùng
Nhĩ phục quốc, trở về nước lên ngôi là Tấn Văn công, ban thưởng cho những người
có công, chia làm ba hạng. Một là những người tòng vong (những người theo đi
trốn); hai là những người tống khoản (những người giúp tiền bạc); ba là những
người nghinh hàng (những người xin làm nội ứng, đón rước về làm vua). Trong ba
hạng này lại tuỳ những người nào có công nhiều hay ít mà phân hơn kém.
Ban thưởng công thần xong, lại yết một tờ chiếu ở
cửa thành rằng: “Nếu người nào có công lao mà chưa được thưởng thì cho phép tự
nói ra”.
Bấy giờ có tên Hồ Thúc nói với Tấn Văn công:
- Tôi theo chúa công từ khi còn ở đất Bồ, cho đến
khi lưu vong khắp nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ bên cạnh. Nay chúa công thưởng
công cho những người tòng vong mà không nghĩ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì?
Tấn Văn công nói:
- Trong số tòng vong, người nào lấy điều nhân
nghĩa mà khuyên ta là công đầu; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế là công thứ
hai, người nào xông pha tên đạn để giữ gìn cho ta là công thứ ba. Còn những
người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại ở dưới nữa. Vậy ta
thưởng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đến nhà ngươi. Hồ Thúc lấy làm hổ thẹn. Tấn
Văn Công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả người theo hầu.
Trong số bọn tòng vong trước có Nguỵ Thù và Ðiên Hiệt cậy mình võ dõng, thấy
Triệu Thôi và Hồ Yển đều là văn thần mà lại được trọng thưởng hơn mình có ý
không bằng lòng, thường kêu ca tỏ vẻ bất mãn. Tấn Văn Công biết ý nhưng nể là
người có công lao nên bỏ qua. Giới Tử Thôi tính tình điềm đạm, thấy nhiều kẻ đổ
xô nhau kể công còn so bì công lớn công nhỏ, lấy làm khinh bỉ, không muốn ở lẫn
với bọn này. Ðến lúc Tấn Văn Công lên ngôi, Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần
rồi cáo bệnh về nhà, yên phận nghèo nàn, ngày ngày khâu giày mướn nuôi mẹ già.
Khi Tấn Văn Công ban thưởng công thần, không có mặt Giới Tử Thôi nên nhà vua
quên lửng. Có người láng giềng thấy Giới Tử Thôi không được ban thưởng, phải
sống tình cảnh như thế nên không bằng lòng. Nhân thấy có chiếu kêu gọi người
báo công yết trên cửa thành, nên vội vàng đến nhà Thôi báo tin. Thôi chỉ mỉm
cười, không nói gì.
Bà mẹ nghe được, bảo:
- Mày khó nhọc trong 19 năm trời, lại cắt thịt đùi
làm cháo dâng chúa công ăn, sao bây giờ mày không nói ra để được thưởng? Mong
được vài chung thóc, chẳng còn hơn đi khâu giày mướn hay sao?
Giới Tử Thôi thưa:
- Con của Hiến công cả thảy 9 người, chỉ có chúa
công hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi
mà để cho chúa công. Những người theo hầu không biết ý trời, dám tự nhận là
công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chẳng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn.
Bà mẹ nói:
- Con làm được người liêm sỉ, còn ta không làm
được mẹ của người liêm sỉ hay sao? Vậy mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân,
chớ nên ở lẫn chỗ thành thị này. Thôi rất bằng lòng, liền cùng mẹ vào Miên
Thượng, một vùng núi cao rừng sâu, làm nhà trong hang mà ở. Người láng giềng
liền tìm cách báo đến Tấn Văn Công. Tấn Văn Công bấy giờ mới nhớ ra, hết sức ân
hận, cho người đi triệu thì Thôi đã dọn nhà đi mất rồi. Tấn Văn Công truyền
người láng giềng của Thôi dẫn đường và đích thân đến Miên Thượng. Ðến nơi, nhà
vua để xe dưới chân núi, sai người đi dò tìm khắp nơi, chỉ thấy núi non rừng rậm,
nước chảy lá trôi, chim hót véo von, mây che mờ mịt mà bóng Thôi không thấy đâu
cả.
Tấn Văn Công có ý không bằng lòng, nói với người
láng giềng:
- Sao Giới Tử Thôi giận ta quá như vậy? Ta nghe
nói Giới Tử Thôi là người con chí hiếu, nếu ta đốt rừng tất Giới Tử Thôi cõng
mẹ chạy ra. Ðoạn, truyền cho quân phóng lửa đốt rừng. Lửa to gió mạnh làm cháy
lan đến mấy dặm, trong ba hôm mới tắt, nhưng không thấy Giới Tử Thôi. Bấy giờ
họ đi tìm thì thấy mẹ con Thôi ôm nhau chết cháy bên gốc cây liễu. Tấn Văn Công
nhìn thấy sa nước mắt, ân hận vô cùng. Ngày đốt rừng nhằm tiết Thanh minh mùng
3 tháng 3. Người trong nước cảm thương Giới Tử Thôi vì lửa cháy chết, nên hằng
năm đến ngày đó không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn thực phẩm để dành ăn, gọi là tiết
Hàn thực tức là ăn toàn độ nguội. Vào ngày này, nhà nào cũng cắm một cành liễu
ở ngoài cửa nhà để chiêu hồn Giới Tử Thôi. Cũng có nhà bày cỗ bàn (đồ nguội) ra
cúng tế. “Nguyên tiêu” là đêm đầu năm và có trăng đầu năm tức rằng tháng Giêng.
Tục Trung Hoa, nhứt là đời nhà Ðường (618- 907) đêm Nguyên tiêu tại Kinh đô
Trường An mở hội Hoa đăng, người người rộn rịp vui chơi suốt đêm. Cách xa
Trường An 10 dặm vẫn còn nghe tiếng huyên náo ồn ào vẳng lại. “Ðêm đêm Hàn thực
ngày ngày Nguyên tiêu” dùng để chỉ sự tấp nập vui vẻ từ đêm nầy sang đêm khác,
ngày nầy sang ngày khác, khách làng chơi vào ra ra vào cửa hàng (lầu xanh) của
mụ Tú bà. Mụ khấn vái trước thần Bạch Mi phò hộ cửa hàng của mụ được đắt khách
như thế. Tiết Hàn thực không ăn ban đêm mà ăn vào ban ngày. Ngược lại, Nguyên
tiêu không tổ chức các cuộc hội hè lễ bái ban ngày mà vào ban đêm. Lẽ ra phải
viết: “Ðêm đêm Nguyên tiêu, ngày ngày Hàn thực” hoặc ngược lại mới đúng. Có thể
vì hạn vận, tác giả “Truyện Kiều” phải viết: Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên
tiêu để chỉ sự náo nhiệt, tấp nập ngày và đêm mà thôi.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét