Khiemnguyen

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Báo chí và văn học Nam Kỳ trước năm 1945



Phong trào văn chương Nam kỳ (1865 - 1942)


Hải Đường - Chim Hải Yến

Từ ngàn xưa với Sĩ Nhiếp, thái thú người Tàu sang cai trị quận Giao Chỉ (187 226), qua đến Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ C nhà Trần, thế kỷ thứ XIII; đời Lê Hồng Đức (1460 - 1497) và mãi đến Triều Nguyễn, gom thâu thiên hạ về một mối, dân tộc Việt Nam trải qua biết bao trang lịch sử, hay cũng nhiều mà dở cũng lắm, nhưng giữ được tiếng Việt Nam, cái hồn chung còn sng mãi đến ngày nay. Đời nọ sang đời kia, cái hồn ấy vẫn bao trùm cả non sông đất Việt và chan thấm trong văn  chương khắp ba Kỳ:
“Vơ vẩn tơ vương hồn Đại Việt
 Thanh tao thép lột giọng Hàn Thuyên ...
Người nào đọc hai câu nầy, dầu người y ở vùng núi Nùng sông Nhị, núi Ngự sông Hương, hoặc cánh Đồng Nai, lại không bâng khuâng, cảm động?
Vậy, trong văn học sử, chẳng có văn chương Bắc, Trung hay Nam. Người Việt Nam chỉ có văn chương Việt Nam.
Trên giải đất Việt, đời sống của dân ở vùng này, dính dấp mật thiết với dân vùng khác, vì ý kiến về xã hội, chính trị, gây thành phong trào lôi cả một xứ đi. Dầu vậy, mỗi vùng cũng có một phong trào nhỏ và riêng về xã hội, chính trị của nội vùng ấy. Nên văn chương Việt Nam đi đến vùng nào, tuy còn giữ nguyên vẹn bản sắc về sự hòa hp âm điệu của tiếng Việt Nam, cũng bị ảnh hưởng không nhiều thì ít của vùng ấy. Văn chương Việt Nam, như văn chương của các dân tộc trên trái đất, là bức tranh vẽ cảnh tượng của người Việt Nam, ghi lại cho đời sau những cuộc thay đổi liên tiếp trong xã hội Việt Nam, chép lại các luồng tư tưởng của văn nhơn; văn chương Việt Nam cũng đi theo thời đại như hình với bóng; văn chương Việt Nam là di tích của ngày xưa.
Mây hàng sau nầy chỉ lược khảo các giai đoạn phong  trào văn chương ở Nam kỳ. Phong trào nầy được vẽ lại, phỏng theo sức lôi cuốn mãnh liệt của các văn nhơn có thnh danh ở đất Bắc và của phái tân học, do Âu học thành tài và khuynh  hướng theo văn học Pháp.
Hơn nửa thế kỷ nay, xã hội đi, văn chương Nam kỳ cũng tuân theo luật tiến hóa mà đi, đi kế theo sức phát triển của sanh hoạt mới trong mọi phương diện, đi đến một nơi mà người tạm cho là đầy hứa hẹn:điều hòa cái khí vị êm đềm của nền học thuật cổ Trung hoa với tư tưởng xán lạn của văn học Pháp”!
*
Văn chương Việt Nam, ở Nam kỳ, từ Trương Vĩnh Ký đến ngày nay, trải qua năm thời kỳ.
Giai đoạn thứ nhứt đi từ 1865, năm sanh của Gia Định báo ở Sài gòn, đến 1917, năm ra đời của tạp chí Nam Phong ở Nội.
Trước khi ba tỉnh phía Đông xứ Nam kỳ lọt dưới quyền bảo hộ (1862), chữ quc ngữ chỉ để dùng gieo hột giống đạo “Cơ đốc”. Các nhà giảng đạo nhờ quyển sách đầu tiên viết bng quc ngữ của c đạo Alexandre de Rhodes đặng giao  thiệp với dân gian: tự vị Nam Lạp Bồ (Dictionnaire Annamite Latin Portugais). Tự vị này làm căn cứ cho các công trình trước tác bằng tiếng Nam của giáo sĩ trong buổi lạ lùng, b ngợ.
Tháng ba năm 1864. Đoàn sứ giả Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình hòa ước với Hoàng đế Napoléon III, đặng chuộc lại ba tỉnh mất, đã về tới Sài Gòn. Vua Tự Đức có phái theo sứ quan thông ngôn Trương Vĩnh Ký. Trương tiên sanh đi xa, thấy người; trở về nhà, xét mình, rồi mong được theo dõi người. Mà phải làm thế nào bây giờ? Phải có ai ra lãnh trọng trách cổ động, truyền bá quc ngữ đã; rồi, lần lần, giáo dục quôc dân. Mãi đến 1869, Trương Vĩnh Ký mới được ông Emest Poteau chủ bút và chủ nhiệm tờ Gia Định báo từ 1865, giao chính thức tờ báo đầu của nước Nam.
Chữ quốc ngữ, nhân đó và từ đó, được phổ thông mau lẹ cùng làng, khắp tổng ở xứ Nam kỳ.
Sau chén thuốc độc nhân đạo và anh hùng của nhà chí sĩ Phan Thanh Giản, có một nhóm người hiểu rõ tình thế, thành thật đưa tay hp tác với chánh phủ mới. Trong đạo binh tiên phong, có Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của và Trương Minh Ký, một mực cố gắng, dùng cây viết mở mang dân trí đặng nâng cao trình độ của dân. Đã nhận được là bậc học giả, sáng suốt trong thời, các ông viết sách chữ quc ngữ vịn theo cốt truyn Tây hay Tàu; các ông dịch sách Tây, sách Tàu ra tiếng ta. Ý tưởng mới lạ, lần hồi được thâu nhập.
Ba nươi mấy năm qua. Li 1900, ông Canavaggio lập ra tờ Nông cổ mín đàm và lối 1906, ông Schneider cho ra hai tờ Lục tỉnh tân vănNam trung nhựt báo. Mấy tờ báo nầy, tuy chẳng giúp được nhiều về mặt tinh thần, chớ có công lớn trong việc phổ thông văn quốc ngữ.
Trong thời đó, những nhà văn là nhà viết báo. Những tay kỳ cựu đã tận tâm trong báo giới phần đông có nho học. Lối hành văn của các ông nhái theo văn thể tàu. Điệu văn cân đối, đọc lên rườm rà êm tai, lại được người cho là hay và bắt chước theo.
Văn học trong thời nầy nhuộm một màu sắc bi quan, gần như chán cả sự đời. Đó là giọng văn lâm ly thông thiết của một hạng văn nhơn “ẩn dật”, ôm chặt chủ nghĩa “giữ sách một mình, ngày tháng vui cùng nước, mây, hoa, c”. Họ gieo rắt trong văn chương “nỗi lòng khó tỏ” của họ.
Tiêu biểu cho phái nầy có cụ Cử Trị và tác giả quyển “Lục Vân Tiên”, cụ Đồ Chiểu.
Cụ Đồ Chiểu đã nói:
“Công danh chi nữa, ăn rồi ngủ,
“Mặc lượng cao dày xử với dân.
Cũng như cụ Cử Trị đã than:
Uốn khúc sông rồng mù mịt khói,
“Văn que thành phụng ủ xào hoa.
“Tan nhà cám nỗi câu ly hận.
Mấy câu thơ chỉ ra được cái lòng ủ rũ của thi nhân đốì với thế sự, cái mốì thương tiếc thiết tha của thi nhân đối với giang sơn.
Từ 1908 trở đi tới 1917, nhiều nhà văn ở Nam kỳ chịu sức xô đẩy của nhóm trí thức Bắc - Trung, đua nhau dịch truyện Tàu, in thành sách hoặc đăng lên báo.   Nhắc lại trong thời kỳ nầy, dân gian vô sự, thái bình, kiếm sách đọc mua vui. Trong các gia đình, ít lắm, cũng có một vài bộ: Tây Du, Phong Thần, Tống Địch Thanh
Tiếng nói rằng dịch truyện Tàu, chớ thật sự nhà văn chỉ diễn ý theo họ, nương cốt chuyện mà kéo ra cho dài. Sách dịch bằng thế nầy, mất cả giá trị văn chương vì lốì văn dùng mà dịch không có quy tắc. Người ta chuyên chú về lượng chớ không quan tâm đến phẩm. Dịch giả giúp độc giả giết được thì giờ là mãn nguyện rồi.
Đây là văn xuôi, thứ văn còn phải chịu thay đổi nhiều mới xứng đáng làm nền tảng văn chương một nước.
Về văn vần, có lốì đặt theo điệu “vè”, “thơ”, “phú” và “ca”, gọi “ca trù thể cách”.
Nhà văn nương theo một chuyện thật, xảy ra gần họ, đã làm xôn xao dư luận rồi viết: vè “Đỗ Hữu Phương”, “Đốc phủ Ca”, “Con Cúc
Tóm lại, văn chương ở Nam kỳ từ 1865 đến 1917 có tính cách phổ thông chữ quốc ngữ bằng lối dịch sách Tàu và Tây. Cách hành văn còn đạo theo văn thể Tàu: cân đối, rườm  rà, êm tai. Ý tứ diễn ra không có thứ tự và nhứt là còn lờ mờ lắm.
Nếu có bản văn nào đầy ý nghĩa thì giọng văn đi từ lâm ly thông thiết đến cười cợt ngạo đời.
Văn xuôi chưa được dồi dào về hình thức và tư tưởng thì văn vần cũng không tiến được một cách đặc sắc.
Chúng ta tạm cho thời kỳ nầy (1865 - 1917) là thời kỳ phôi thai của văn quc ngữ ở Nam kỳ.
*
Giai doạn thứ hai đi từ 1918, năm ấy trường Đại học Đông Dương mở cửa, tới năm 1926 hai cụ Phan về nước.
Nhắc lại, Tạp chí Nam Phong, một cơ quan truyền bá danh từ mới và điều hòa phần chữ hán với phần quốc văn, đã sng được một năm (1917). Tạp chí nầy đã tìm đường vào Nam một cách mạnh mẽ. Học sanh, người Nam kỳ ra Bắc ở trường Đại học trong my năm, có dịp chịu ảnh hưởng sâu xa của những luồng tư tưởng mới, được diễn ra bằng danh từ mới trong một tạp chí đứng đắn về mặt văn chương: Nam Phong. Trở về Sài gòn, my cựu sanh viên cao đẳng đem theo cách viết văn quc ngữ mới, mới và cái hay trong chỗ mới đó mà phân phát cho gia đình tức là cho xã hội Nam kỳ.
Với Nam Phong, ông Phạm Quỳnh cổ động bảo tồn quc túy, hòa tân cựu, lập nên một kho tài liệu chín chắn cho những bậc học giả muốn biết đại khái về văn chương học thuật của Tây phương hay tinh thần văn hóa của Đông Á.
Tiếp theo ông, mười năm sau có Hoàng tích Chu một cựu du học sanh ở Pháp, dạn dĩ thực hành lối văn xuôi mới, viết theo điệu văn Pháp trong tờ Đông Tây.
Văn “Nam Phong” khô khan, đầy chữ hán, thi văn “Đông Tây” gọn gàng nhưng hơi “sống sượng” vì nó theo văn Pháp từ ý tứ đến cách hành văn.
Năm 1915 ở Bắc, năm 1918, ở Trung, thi Hương đã bãi. Mộng làm quan đã tàn, các nho sĩ phải tìm nẻo xoay hẳn qua địa hạt quốc văn. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiêu biểu cho phái “cất bút lông vào hòm sách cũ và bắt đầu cầm bút sắt”. Tiên sanh gieo “cái buồn thảm của một phần tử của giai cấp quý tộc thời kỳ sắp trúc đổ” trong văn chương. Tiên sanh “réo rắt cung đàn” ra những tiếng “toàn một điệu buồn bã, tức  bực, ủ ê, chán nản, bi quan” Quyển Khối tình con và những bài “luận thuyết con con, lý thú, ngộ nghĩnh” của Tản Đà đã đăng trong Nam PhongĐông Dương tạp chí rải mầm lãng mạn trong văn chương Nam kỳ. Ảnh hưởng của Tản Đà đối với lớp tân học đã ra ngoài cái kết quả mong đợi.
Người yêu văn chương ở Nam kỳ đua nhau viết đạo mạo theo lốì “Nam Phong”, réo rắt theo li “khối tình”, “giấc mộng” hoặc mới mẻ như Hoàng Tích Chu sau nầy. Một nhà văn ở Nam kỳ, ông Đông Hồ đã cho đăng bài lệ ký Linh Phượng ở một sNam Phong năm 1928.
thời kỳ nầy, văn nhơn Nam kỳ còn ít lắm. Văn chương đương chuyển biến dữ dội đặng thành một thứ văn  chương ứng dụng, bền bỉ.
Rủi thay! Một nguồn văn chương đầy ý nghĩ dâm ô, uế trược đổ ra chan cả mấy tỉnh Nam kỳ. Trên giải đất Đồng  Nai, làn văn chương ác hại đó thổi rất mạnh. Tiểu thuyết “tình” điệu “Hà Hương phong nguyệt”, “Người bán ngọc” tiểu thuyết “trinh thám”, “kiếm hiệp” điệu “Một mặt hai lòng, “Cái nhà bí mật”, “Châu về hiệp phố”, “Lửa lòng” xuất bản dễ dàng và bán chạy như “tôm tươi”.
Người ta, nhứt là con trẻ, phải mê mệt vì hoan nghênh lắm. Và văn chương nầy cũng theo luật tự nhiên mà bị bỏ quên mất.
Sau l Đình chiến trận giặc Âu châu (1914 - 1918). Ngày 24/08/1919, nổi lên ở Nam kỳ phong trào “tẩy chay khách trú”.
Lần thứ nhứt, trong lịch sử báo giới Nam kỳ, chúng ta thy hiện ra lốì văn “đánh lộn”. Các nhà viết báo đồng tâm hiệp lực kêu gào và cổ động buộc người Nam kỳ trong sáu bảy tháng thôi! kết “thành dây đoàn thê để binh vực quyền lợi An nam đối với khách ngoại bang”.
Cũng trong lối đó, Nguyn Háo Vĩnh, người Nam kỳ đậu cử nhân tiếng Anh, về Sài gòn, ông viết quôc ngữ mắng Annam điếc hay là cục đất!”. Chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn, bây giờ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Văn Của, bất bình, sanh ra một trận bút chiến “dài nhằng”.
*
...Tờ Thần Chung, gặp thời cuộc, làm việc hăng hái, dùng một lối văn mới mà lôi cuốn người. Những cây viết “cừ” như Phan Khôi, Diệp n Kỳ và Nguyễn Văn Bá lo tròn bn phận.
Lối 1925, quyển Tố Tâm ra đời Nội, băng rừng, vượt núi vào Nam kỳ. Nhiều người đọc đi đọc lại nhiều lần, đến thuộc lòng cả bức thơ của Đạm Thủy, T Tâm ở trong. Duyên cớ ấy là vì ‘Tố Tâm” mới, mới lắm.
Tác giả nó là ông Hoàng Ngọc Phách, một cựu sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, gặp “trở lực” của phái “đạo đức”. Ông Phách nhiễm sâu phong vị của óc lãng mạn các thi sĩ Pháp. Tâm lý các vai truyện được tả đúng. Ái tình của họ được diễn đạt một cách châu đáo từ lúc mới sinh đến lúc kết liễu tàn ác một đời người. Tác giả quyển Phê bình và Cảo luận nói: “văn mới, truyện mới, cách bcuộc có trật tự, có cơ mưu, có lý do, hành động theo tâm lý và giải cấu hợp tự nhiên...   Thật là cuốn sách của người có học và viết nghề.
Tố Tâm” tương t “Khối tình con”, nhưng “Tố Tâm gieo giống lãng mạn bằng phương pháp Âu tây, còn “Khối tình con” gieo bằng văn thể Tầu.
Ông Hoàng Ngọc Phách đi cùng với Tản Đà trong chủ  nghĩa “than mây khóc gió” khi “cánh hồng bay bổng, tin nhạn vắng tênh” và đã làm cho nhiều nhà văn Nam kỳ để ý một cách đặc biệt.
Điệu “văn Tản Đà” Âu hóa y được làm khuôn mẫu trong một thời gian khá lâu”.
Kế đó, ông Hồ Biểu Chánh, một văn nhơn Nam kỳ, chuyên môn về lối văn chương tả chân. Nói đến tác giả của những quyển: Tỉnh mộng gia đình, Ngọn cỏ gió đùa, Thầy thông ngôn, Chút phận linh đinh..., nhà phê bình Thiếu Sơn cho ông Hồ là “một người có kinh nghiệm, hiểu rộng, biết nhiều về nhân tình thế thái, có quan sát, đã thâu vào cặp mắt tinh thần được nhiều bức tranh xã hội, một nhà tâm lý đã khám phá được nhiều điều bí ẩn ở tâm giới người đời.
Lối văn Hồ Biểu Chánh rõ ràng vì thiết thật, diễn ra được một “luân lý xưa” đối chọi lại lối văn Hoàng Ngoc Phách bóng bảy mà lãng mạn. Có người nói điệu văn của tác giả “Tnh mộng gia đình” có tính cách dung hòa, nhưng “lượt bượt”, và, cùng với thời gian, sẽ mất. Dầu sao, sự nghip văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng làm vang động một thời, ông Hồ Biểu Chánh là một nhà văn đáng nhắc nh vì cũng cắm đặng một viên đá trên nền tảng văn chương ở Nam kỳ.
*
Vậy thì, văn chương ở Nam kỳ từ 1918 tới 1926, trải qua mấy lần thay đổi, bị những phong trào xã hội in vào. Văn chương đương tìm đàng đặng được phong phú thêm lại bị làn tư tưởng ô uế làm trở nên ủy mị, lỏng lẻo. Nhưng cái ảnh  hưởng sâu xa của văn Tản Đà, Hoàng Ngc Phách, tuy gieo rắt mầm lãng mạn trong dân gian mà níu văn chương được ở trong vòng trật tự. Lần lần, văn chương đượm màu chánh trị, rồi đi qua lối tả chân của Hồ Biều Chánh. Thời kỳ nầy, văn xuôi Nam kỳ đương thay đổi thì văn vần nằm một chỗ.
Văn Pháp khởi sự được làm khuôn mẫu cho văn chương Việt nam rồi; nên cách hành văn đã trở nên gọn gàng và có thứ tự, dễ hiểu.
*
Giai đoạn thứ ba đi từ 1926 đến 1935, ngày báo Sống ra đời, nghĩa là hai năm sau khi tờ Đng Nai chết.
Đồng Nai là một cơ quan truyền bá tư tưởng mới, theo điệu mới, của hạng người mới, đám trí thức du học ở nước ngoài về Nam kỳ.
Lối năm 1926 - 27 - 28 - 29, thiên hạ đua nhau gởi con, em qua tận Chánh quc tìm cách học “mau” và “tắt”. Thình lình nạn kinh tế khủng hoảng hãi hùng đưa đến. Từ 1930 trở đi, giá lúa gạo sụt xuống quá sức tưởng tượng. Nhiều điền chủ phải bỏ hoang đất ruộng, chịu thiếu thốn mọi bề, rút cả con cháu đang học ở Pháp về nhà.
Một nhóm tân học, trẻ tuổi, hăng hái xuất hiện. Nhóm người chỉ quen với văn chương Pháp từ lúc còn nhỏ, lại bị thời cuộc ép tập viết quốc ngữ. Sn có sức học, sẵn có tư tưởng chín chắn, sn có lốì viết theo văn Pháp, các ông cứ viết văn quốc ngữ theo cách hành văn Âu tây. Phái văn nhơn mới gồm có các ông xuất thân ở trường Đại học, nào là y khoa tấn sĩ, nào cử nhân văn chương, cử nhân luật, cấp bằng Đại học triết lý, kỹ sư... hợp thành một khôi tinh vi để làm việc đúng đắn, theo một li mới, có phương pháp và trật tự.
Các ông muốn phổ thông một thứ văn chương âu hóa mà gọn hơn của Hoàng Tích Chu. Thứ văn chương mới, đi từ cá nhân ích kỷ với Tố Tâm  đến chỗ gia đình xã hội. Văn thể có “mùi khoa học” quyết giết chết cái lối viết của tác giả “nhìn đối tượng bằng con mắt bao quát để tả một cách lờ mờ cái gì có thể tả tỉ mỉ được
Chịu ảnh hưởng văn Pháp, lối văn “Đồng Nai” là lối văn tả chân, buộc nhà văn “bỏ hàng ngũ mình đi sâu vào xã hội để quan sát”, “làm quen với mỗi lớp ở xã hội, nghĩ với họ, ước vọng với họ, sống cái đời hoàn toàn của họ”.
Đó là văn chương đi theo sự sống còn của xã hội, nhứt là xã hội năm 1933: nạn thất nghiệp làm một đám thanh niên có học, không công ăn việc làm, đâm ra chán nản cuộc đời. Cũng vì sự chán nản ấy mà họ đưa ra những ý kiến buốn bã, ủy mị.
Trong lúc nhóm “Đồng Nai” hoạt động thì tờ Phụ nữ tân văn đã ra đời, từ ngày 2 tây tháng năm 1929, đem “phấn son tô điểm sơn hà; làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”, sau khi tờ Thẩn Chung bị nghỉ, nghỉ luôn...
Tờ Phụ nữ tân văn chiếm một địa vị khá cao trong văn giới ở thời kỳ này. Số độc giả rải khắp ba kỳ. Được như vậy là nhờ có “một văn thể mới, rõ ràng, đọc lên thì hiểu liền, không dùng chữ cao kỳ mà câu văn có lý thú và xác thực” của ông Phan Khôi, một nhà học giả có sức nho học, biết đem “cái học cũ... sn có” hòa với “cái học mới vào”.
Những bài của ông viết, đầy tư tưởng, lý luận, đã gây ra một dư luận ngộ nghĩnh về văn chương.
Như tiên sanh kết án phái “học phiệt” (một hạng người cũng sao có học vn, có tư tưởng, nhưng phải cái tánh tự cao tự phụ quá, dường như mun chuyên chế dư luận, chỉ lên mặt làm thầy người ta chớ không chịu người ta chỉ trích đến mình bằng một bài tựa đề: “Cảnh cáo các nhà “học phiệtsau khi đọc bài trả lời của Trần Trọng Kim về sự phê bình cuốn Nho giáo.
Phụ nữ tân văn chẳng những săn sóc nữ giới mà thôi. Phụ nữ tân văn lại còn một cách thiết thật lo cho xã hội; một “hội chợ phụ nữ” long trọng được tổ chức cách châu đáo Sài Gòn. Tiền thâu vào quỹ hội chợ được truất ra “lập học bổng”. Việc nầy đã thành thiệt sự và hôm nay cũng kết quả: anh học trò tốt phước được lựa du học bên Pháp vào trường Đại học lâu rồi.
Ảnh hưởng tờ Phụ nữ tân văn đổì với văn chương ở Nam kỳ không ít. Văn nhơn viết ra lối văn mới, dễ, gọn và đầy ý nghĩa.
Ngày 22 tháng giêng 1935, báo Sống ra đời muốn “gây cho cuộc đời ...một sự sng tươi cười, ấm áp, mạnh mẽ, hoạt động hơn... một cuộc đời đầy bông hoa và ánh sáng...”; khuyên “ta luôn luôn phải biết vui sống, biết yêu đời” vì “có biết vui sống, có biết yêu đời thì mới nghĩ làm cho cuộc đời...cho sự sống càng ngày càng sáng sủa vẻ vang”.
Báo Sng chào sự sông với tôn chỉ nhứt định:
Sốngtrình bày cho quốc dân cái dư luận, cái khuynh hướng chung của người trong nước, làm cho quốc dân biết cái địa vị, cái thân phận mình trong trường sanh hoạt ganh đua của thế giới; gây cho nước có một nền văn chương sáng sủa, giản dị, vui vẻ, hp với sự sống trong thời kỳ đó; tùy lúc, đem văn chương mà bày tỏ, tả vẽ những cái hay cái đẹp của phong cảnh non sông, đất nước nhà... để khiến cho ai ai cũng có lòng yêu nòi giống, yêu đất nước một cách giản dị mà thành thật.... Báo Sống có nhiều bài bàn đến vấn đề thực tế như: “Nghề làm ruộng”, “Dân cày với thầy giáo”, vấn đề tơ lụa”... Báo Sống đưa ra một điệu văn nửa cũ nửa mới: cũ của phái nho học chín chắn; mới của phái tân học viết không sống sượng.
Báo Sng chỉ ra được 31 số rồi đến 15 tháng mười 1935 phải đình bản. Tuần báo như Sống đáng lẽ phải sống thêm vì được các bậc học giả Nam kỳ chú ý một cách đặc biệt. Báo Sống dầu có một cái duyên ngắn ngủi với nhà văn nhưng nhà văn không bao giờ quên nó và vẫn giữ những cảm tình êm dịu với nó vì nó đã có một khuôn mặt “bảnh bao” trên văn đàn.
Từ 1926 đến 1935, chúng ta có thể nói văn chương ở Nam kỳ tiến nhiều và nhuộm màu sắc quốc gia, xã hội thây rõ rệt...
Sở dĩ văn chương ở Nam kỳ trong giai đoạn nầy được tấn bộ như vậy là vì, một phần, nhờ ảnh hưởng tốt của nhóm “Tự lực văn đoàn” ngoài Bắc.
Các nhơn vật trường sanh như “Lý Toét”, “Xã Xệ”, “Bang Bạnh” của phái Nguyễn Tường Tam tạo ra, các nhân vật ấy được các nhà văn tân học ở Nam kỳ hoan nghênh lắm. Với giọng khôi hài chua cay, với lối văn “Âu hóa” mới của “Hồn bướm mơ tiên’’ nó mở một kỷ nguyên mới trong văn giới Nam  kỳ. Nhà văn đua nhau viết “lối mới” đi một lượt với các tờ Mai, Đồng Nai, Phụ nữ tân văn, Sống, như tờ Đông Dương và với tờ Văn Lang ở my năm sau nầy.
Buổi nầy nhà văn dường như biết dung hòa “văn thể tàu” với “văn thể tây” làm ra một thứ văn chương riêng cho người Việt Nam: lối tả tình bằng giọng văn gọn gàng d hiểu; tư tưởng xưa và nay quan niệm có thứ tự của khoa học; cốt  chuyện mà nhà văn đưa ra gần ging với cuộc sng còn của thế gian; tâm lý của các nhân vật được hiểu rõ cách tinh tường hơn. Những bộ tiểu thuyết tình, về gia đình, như Mảnh trăng thu, Người vợ hiền đăng báo Phụ nữ tân văn trước khi xuất  bản thành sách, cm được một cột trụ lớn trong văn giới ở Nam kỳ.
Tờ Loa cũng đáng nhắc nhở như tờ Tiểu thuỵết thứ bảy. Hai tờ nầy chiếm một sđộc giả cao trong Nam kỳ. Tờ ‘Tiểu  thuyết thứ bảy” được các lớp ở xã hội Nam kỳ đọc một cách mê mẩn. “Mốt” “Cát Tường” và mục “Ồng tơ bà nguyệt” của Loa còn được người ta thỉnh thoảng nói lại.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét