Khiemnguyen

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

THĂM MỘ ALEXANDRE DE RHODES TẠI BA TƯ - TRI ÂN NGƯỜI KHAI SÁNG CHỮ QUỐC NGỮ VIỆT NAM

“Từ thuở còn sinh viên, khi được học về nguồn gốc chữ Quốc ngữ mà chúng ta có được để sử dụng một cách dễ dàng và tiện lợi như ngày nay. Tôi đã thầm cảm ơn những nhà truyền giáo phương Tây, đặc biệt là Alexandre de Rhodes, người đã có đóng góp lớn lao trong việc hoàn thiện hệ thống bảng chữ cái cho người Việt Nam của chúng ta.

Và may mắn thay, trong chuyến đi Ba Tư (Iran) lần này. Một cơ duyên vô cùng quý báu đã giúp tôi có cơ hội đến viếng thăm ngôi mộ, nơi yên nghỉ của ông trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran.

SỰ CHỈ GIÚP CỦA NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG

Từ lời gợi ý của một chị bạn, chúng tôi biết được thông tin về ngôi mộ của Alexandre de Rhodes được an táng trong một nghĩa trang công giáo của người Armenia tại Esfahan. Nhưng do thời gian lưu lại nơi đây khá ngắn, vì thế hy vọng được đến viếng thăm ngôi mộ của ông là khá mong manh cho chúng tôi.

Khi nghe chúng tôi nói về ước nguyện của mình, cô Malih - một Hướng dẫn viên người Iran vô cùng thông cảm và hết sức tận tình giúp đỡ. Mặc dù với thâm niên hơn 10 năm làm nghề hướng dẫn viên, đã đưa biết bao nhiêu đoàn khách từ khắp năm châu đến thăm Esfahan, nhưng là người Hồi giáo cho nên cô chưa hề biết đến thông tin về khu nghĩa trang người công giáo Armenia nằm ở đâu. Và cô cũng không hề biết đến thông tin nào về Alexandre de Rhodes.

Sau quá trình tìm kiếm, thông qua một người bạn gốc Armenia, cô Malih hỏi thăm được địa chỉ của nghĩa trang. Nhưng vấn đề là không phải ai cũng được vào thăm nghĩa trang. Mà cần phải có sự đồng ý của người quản lý ở nghĩa trang.

Một lần nữa, chúng tôi may mắn gặp được một vị quản lý ở nhà thờ Vank, ông đã nhiệt tình viết cho chúng tôi một tờ giấy phép để xuất trình cho người quản lý ở nghĩa trang.

Cầm tờ giấy trên tay, chúng tôi vội vàng đi về phía ngoại ô thành phố Esfahan. Nơi có nghĩa trang của cộng đồng người Armenia sống tại đây.

NƠI NGƯỜI NẰM XUỐNG

Trước mặt chúng tôi là một nghĩa trang rộng lớn. Những dãy mộ xếp hàng dài nối bên nhau mênh mông. Chúng tôi biết là sẽ không dễ dàng để tìm ra vị trí lăng mộ của ngài. Chúng tôi tìm gặp một cụ già quản mộ ở đây dò hỏi. Cụ nhanh chóng lên xe đưa chúng tôi đến ngôi mộ có tên Alexandre de Rhodes….

 Hôm chúng tôi đến, là ngày đầu năm mới của tết cổ truyền Nowruz của người Ba Tư (Iran), một vài ngôi mộ gần đấy được đặt những chậu hoa. Còn ngôi mộ của ông không có một cành hoa nào, đó chỉ là một nấm mồ nhỏ làm bằng một tảng đá hình chữ nhật nằm khép mình khiêm tốn bên những ngôi mộ khác.

 Một niềm xúc cảm thân thương nghẹn ngào mà tôi không thể tả thành lời đang tuông chảy trong tôi. Đây là nơi an nghỉ của người đã có đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam. Dưới lớp đất ấy là thi hài của một người phương Tây xa lạ.

Ông đã mất từ gần 4 thế kỉ trước nhưng ông là người đã giúp cho dân tộc Việt Nam có được một bảng chữ cái với các thanh sắc uyển chuyển nhẹ nhàng, nhằm để ghi lại và diễn đạt tiếng mẹ đẻ của người Việt Nam.

Mộ ngài Alexandre de Rhodes



Đặt một chậu hoa tím mua được trong một hiệu bán hoa tết của người Iran lên mộ ông. Chúng tôi không ai nói lời nào. Nhưng giữa chúng tôi có một sự đồng cảm sâu sắc. Chấp tay lên ngực, tôi khẽ cúi đầu xin gửi đến người một lời tri ân sâu sắc.

Nhìn thái độ thành khẩn và tôn kính của chúng tôi dành cho người nằm dưới nấm mộ. Người quản trang hỏi cô Malih: "ông ấy là ai mà chúng tôi có vẻ tôn kính thế?". 

Và ông đã vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng đây là người đã có công hoàn thiện bảng chữ cái cũng như xuất bản những quyển tự điển Việt - Bồ - La tinh đầu tiên cho người Việt Nam từ những năm 1651.

Qua cuộc chuyện trò, tôi đuợc biết người quản trang có tên gọi là Rostam Gharibian, ông đã làm việc ở đây được 17 năm.

Tôi hỏi, trong 17 năm đó có bao giờ ông thấy ai là con cháu hay người thân của ngài Alexandre de Rhodes đến viếng mộ ông ấy hay không.

Thoáng chút đăm chiêu, ông trả lời rằng: vì là một thầy tu cho nên khi mất đi cũng như bao người khác Alexandre de Rhodes cũng không có vợ con. Và họ hàng thì cũng ở xa tít tận châu âu cho nên chắc cũng không ai còn nhớ.

Vì thế trong 17 năm nay ông cũng chưa hề nghe thấy một người họ hàng hay con cháu nào của ông đến thăm. Chỉ thỉnh thoảng đôi khi ông thấy có một vài người Việt Nam đến viếng mà khi đó thì ông cũng không biết họ là ai và có quan hệ như thế nào với người đã mất…

Theo truyền thống của những người Iran, tôi lấy một ít nước rửa lên nấm mồ của ông. Những giọt nước mát trong chảy lên bia mộ ông tựa như lời thì thầm của chúng tôi xin gửi đến người. Cả một đời ông cống hiến vì đạo. Và trong quá trình truyền giáo, với mục đích mong muốn truyền tải những thông điệp trong kinh thánh một cách dễ dàng hơn.

Ông đã không quản khó nhọc để tìm cách sáng tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt. Và đến khi cuối đời, Ngài đã lặng lẽ nằm lại nơi xứ người. Có lẽ giờ đây ông không còn một người bà con họ hàng nào nhớ đến ông để thỉnh thoảng ghé thăm, chăm nom nấm mồ của ông nữa, nhưng có lẽ ông cũng ấm lòng khi biết rằng vẫn còn đó những người con nước Việt.

Vẫn còn đó hơn 90 triệu người con nước Việt trên khắp 5 châu sẽ mãi mãi không bao giờ quên ơn ông. Người đã có công vĩ đại trong việc chấm dứt 1000 năm tăm tối, 1000 năm khốn khó khi những người Việt phải đi mượn chữ Tàu ghi lại tiếng Việt.

Những người con đất Việt kính cẩn nghiêng mình trước mộ ALEXANDRE DE RHODES

Và giờ đây, hạnh phúc thay. Chúng ta đã có được bảng chữ cái của riêng mình. Một bảng chữ cái dựa trên các ký tự La Tinh nhưng vô cùng uyển chuyển và dễ học.

Xin cám ơn người, một vị đại ân nhân của những người con nước Việt. Xin tri ân người với lòng kính yêu sâu sắc: Alexandre de Rhodes !”



nguồn: Phạm Minh Trí

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2021

Phan Khôi

 Một đời với báo chí

Theo tư liệu của gia đình và một số nhà nghiên cứu thì năm 1907 Phan Khôi ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo. Nhưng theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, ông có thể bắt đầu làm báo từ năm 1918, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là tạp chí Nam phong với bút danh Chương Dân. Hơn một năm sau, Phan Khôi vào Sài Gòn, viết cho tờ Lục tỉnh tân văn. Sau vài tháng, ông lại trở ra Hà Nội, cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho Hội thánh Tin Lành, đồng thời cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Hữu thanh. Vài năm sau, Phan Khôi lại vào Nam. Năm 1927, có thể là để tránh sự truy nã, Phan Khôi xuống Cà Mau ẩn náu và tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.

Từ đầu năm 1928 đến năm 1933, Phan Khôi viết cho tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập ở Sài Gòn, Quần báo, Hoa kiều nhật báo (chữ Hán) ở Chợ lớn, và Ngọ báo, Đông tây, Thực nghiệp… ở Bắc kỳ.

Tháng 4/1933, Phan Khôi từ Sài Gòn ra Hà Nội viết cho Thực nghiệp dân báo; từ tháng 9/1933 bắt đầu viết cho Phụ nữ thời đàm.

Đầu năm 1935, Phan Khôi vào Huế, làm chủ bút nhật báo Tràng An. Đầu tháng 8/1936, ông sáng lập tuần báo Sông Hương, là chủ nhiệm kiêm chủ bút. 

Sau khi bán tờ Sông Hương cho Phan Đăng Lưu (3/1937), Phan Khôi vào lại Sài Gòn dạy học đến cuối năm 1941 thì chuyển về sống ở quê (Điện Bàn, Quảng Nam). Những năm này (1937 - 1941), ông vẫn viết bài cho các báo Thời vụ, Dư luận, Tao đàn, Phổ thông bán nguyệt san, Điện tín, Nước Nam, Tiếng dân và vẫn theo đuổi những tranh luận trên báo chí.

Tháng 10/1945, ông được Chính phủ Hồ Chí Minh mời ra Hà Nội hoạt động văn hóa rồi từ đó tham gia kháng chiến chống Pháp. Thời gian ở Việt Bắc (1947 - 1954), ông chủ yếu nghiên cứu tiếng Việt và dịch thuật đồng thời cộng tác với tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam.

Hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội, vẫn chủ yếu dịch thuật, nhất là các tác phẩm của Lỗ Tấn và viết bài cho báo Văn nghệ. Tháng 9/1956, Phan Khôi nhận lời làm chủ nhiệm tờ tuần báo Nhân văn. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Tháng 7/1958, Phan Khôi bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà văn. Ngày 16/1/1959, ông qua đời tại nhà riêng ở Hà Nội.

Sưu tập Phan Khôi - tác phẩm đăng báo (từ 1917 đến 1958) của Lại Nguyên Ân xuất bản những năm gần đây mặc dù như ông nói là chưa đầy đủ đã gồm 12 tập, 7.600 trang. Phan Khôi chủ yếu viết báo bằng tiếng Việt, viết nhiều thể loại nhưng điêu luyện nhất là chính luận, đặc biệt là về văn hóa, văn nghệ. Ông không ngại đi vào những vấn đề gai góc của học thuật và cuộc sống, là nhà báo có biệt tài phát hiện những vấn đề lớn qua các hiện tượng, sự kiện nhỏ và có những nhận định chính xác về bản chất của nó. Ông chủ trương khi viết chính luận, bút chiến phải kiên quyết dứt bỏ tình cảm và đề cao lý trí. Ông được coi là cha đẻ của thể loại “hài đàm” kết hợp/sử dụng văn chương với/vào báo chí, tiêu biểu như mục “Cuộc sống hàng ngày” trên Đông Pháp thời báo, Thần chung…

Với tư cách nhà văn, ông được nhận định là một tác giả khởi đầu của phong trào Thơ mới. Văn nghiệp của ông đã để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ, trong đó có: Bàn về tế giao (1918); Tình già (thơ mới - 1932); Chương Dân thi thoại (1936); Trở vỏ lửa ra (1939); Tìm tòi trong tiếng Việt (1950)... Ngoài ra, ông còn là nhà ngữ học, nhà sử học với nhiều tác phẩm có giá trị.

“Kẻ phản biện” số một của báo chí Việt Nam

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận định: “Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng..., ông thường tự thể hiện như kẻ phản biện và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho tri thức”.

Tác phẩm của Phan Khôi bất luận là văn hay báo đều có tư tưởng học thuật, có một cách nhìn mới mẻ, duy tân trên nền tảng khoa học tiến bộ. Với mong muốn đổi mới, ông là người khởi xướng nhiều cuộc tranh luận học thuật trên báo chí một cách thẳng thắn, sòng phẳng. Sơ bộ, có thể tạm tính, Phan Khôi có 9 cuộc tranh luận đáng chú ý nhất là: 1) về “Truyện Kiều”; 2) về nữ quyền và bênh vực phụ nữ; 3) về Nho giáo; 4) về công và tội của vua Gia Long; 5) về quốc học và chữ quốc ngữ; 6) về thơ mới và thơ cũ; 7) về duy tâm và duy vật; 8) về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ; 9) về phương Tây và phương Đông…

Tranh luận về Nho giáo, Phan Khôi đã có một loạt bài, nổi bật nhất là bài Đôi điều nên biết về Nho giáo đăng trên báo Đông Tây năm 1931 phê phán Nho giáo một cách quyết liệt nhất. Là nhà Nho nhưng ông tự đứng ngoài truyền thống Nho giáo để xác lập một vị thế độc lập với nó để phê phán những luận điểm căn bản, nền tảng nhất của Nho giáo vốn đã được khẳng định và đề cao nhằm phủ nhận vai trò lịch sử của học thuyết này trong thời đại của ông, loại bỏ nó ra khỏi địa vị nền tảng của nền văn hóa Việt Nam. Sự phê phán này là đóng góp cần thiết cho sự tiếp nhận một cách mạnh mẽ hơn những giá trị văn hóa phương Tây ở Việt Nam giai đoạn này.

Tranh luận về nữ quyền, trên Phụ nữ tân văn và Phụ nữ thời đàm, Phan Khôi đã có hàng loạt bài viết về thân phận của phụ nữ. Ông viết: “Đại để ở dưới cái chế độ xã hội này, hễ là dân và đàn bà thì phải chịu khổ. Dân bị kẻ cầm quyền áp chế, đàn bà thì bị đàn ông áp chế. Kẻ cầm quyền làm cho dân ngu đi đăng dễ đè nén, cũng như đàn ông làm cho đàn bà ngu đi đặng dễ sai khiến....”. Ông đưa ra hoàng loạt vấn đề liên quan như phụ nữ với chính trị, với văn học, với giáo dục, với nữ công gia chánh, về nhân phẩm và quyền được hạnh phúc trong hôn nhân... để khẳng định vị trí, vai trò của họ trong gia đình, xã hội nhằm giải phóng họ khỏi bất công.

Tranh luận về chủ đề phương Đông và phương Tây, chủ kiến của Phan Khôi là: 1) Phương Tây chuộng khoa học thì phương Đông chuộng huyền học; 2) Phương Tây chuộng tự chủ thì phương Đông chuộng thống thuộc (ông giải nghĩa chữ “tự chủ” ở đây chính là nội dung của chủ nghĩa cá nhân; rất khác so với những nội hàm “cá nhân chủ nghĩa” bị xuyên tạc sau này); 3) Phương Tây trọng sự tiến thủ thì phương Đông trọng sự an phận. Từ phát hiện này, Phan Khôi đi tới kết luận: Phương Đông muốn tiến bộ thì phải học theo tư tưởng và lối sống Tây phương, phải “Âu hóa”.

Tranh luận về quốc học, Phan Khôi cho rằng “quốc học” ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Theo ông, quốc học là nền học thuật, tức nền tư tưởng, nền triết học riêng đã thực sự ảnh hưởng, chi phối đời sống xã hội khiến cho dân tộc ấy khác biệt với các dân tộc khác. Từ đó, ông cổ vũ cho việc truyền bá và thống nhất sử dụng quốc ngữ để làm nền tảng phát triển giáo dục, văn hóa, văn học và khoa học, xây dựng nền quốc học của nước nhà.

Trong các cuộc tranh luận khác nữa, Phan Khôi đều có chính kiến và thể hiện quyết liệt tư tưởng học thuật, tinh thần đổi mới trên nền tảng tri thức khoa học phong phú và tiến bộ.

Phan Khôi cả một đời làm báo viết văn. Ông là nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn của báo chí Việt Nam thế kỷ XX mà đến hôm nay chúng ta vẫn chưa hiểu hết về tầm vóc ông.

Phan Khôi xác định rõ ba chuẩn mực về văn chương của nhà báo là Tín, Đạt, Mỹ. Tín là phải cho thật, cho có lý; Đạt cho thông, làm cho người đọc hiểu được bài báo, nhà báo; Mỹ nghĩa là văn phải cho đẹp để cảm người cho sâu, truyền đi cho xa.

(Vĩnh Khánh)

Nguồn: http://m.kinhtedothi.vn/thong-diep-tu-lich-su-phan-khoi-nha-bao-chinh-luan-425809.html





Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021

Phu trạm - những người bảo đảm thông tin, liên lạc trong thời phong kiến

Làm việc ở dịch trạm là một số cu-li (công nhân - tiếng Pháp) và Nho sĩ trong vùng. Họ được chia thành phu phen, lính gác, phu trạm chạy bộ hay chạy ngựa, coi ngựa, thư lại và trưởng trạm. Họ được miễn trừ thuế và quân dịch, được trả công nhật bằng gạo. Theo một thông ngôn ở Tòa Khâm sứ thì các cu-li được trả lương tháng là 5 tiền (0,40fr). Chính phủ nhượng cho họ một khoảnh đất để làm nhà và vài thửa ruộng nhỏ để trồng lúa hoặc khoai. Họ luôn trong tình trạng sẵn sàng lên đường bất cứ giờ nào kể cả ngày hay đêm.

Thư lại của trạm có vai trò phân công lần lượt từng người. Một thân cây khô đục lõm dùng làm trống. Khi gọi ai, viên thư lại gõ vào cái trống mấy tiếng theo nhịp đã định trước. Từ xa có thể nghe được tiếng gõ này và các cu-li phải bỏ việc trên đồng chạy ngay tới nhận nhiệm vụ.

Công việc ở trạm gồm chuyên chở quan lại và hành lý của họ, khí tài của quốc gia và trước hết là vận chuyển thư từ, công văn. Sự trung thành trong vấn đề vận chuyển là điều rất cần thiết bởi họ có tên trong trạm và sẽ bị trừng phạt rất khắt khe. Nhân viên thư trạm đeo môt cái chuông nhỏ ở thắt lưng. Họ còn mang thêm một cái cờ An Nam nhỏ để trên đường chạy việc nếu cần dừng hoặc xin ưu tiên họ sẽ phất cờ lên.

Tổ chức này có từ thế kỷ IX và luôn cung cấp dịch vụ tuyệt vời. Họ đã vận chuyển thư tín cho chúng ta trong khắp nội địa An Nam và vẫn vận hành trơn tru.

Ở Bắc kỳ, phu trạm là những cu-li do mỗi làng cử ra như là một nghĩa vụ nộp tô. Ở Trung kỳ, họ được tổ chức theo kiểu nhà binh. Các cu-li ở trạm được gọi là lính, trưởng trạm gọi là đội.

(Nguồn: Du ký Trung kỳ - trên đường cái quan)





Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

Hôm nay ngày 10 tháng 01 năm 2019

Như vậy, đã gần 2 năm mới có thời gian quay trở lại đây. Thoáng qua đã gần 10 năm blog này ra đời, với hơn 330 k lượt truy cập, tự thấy rằng blog của mình cũng có một chút lợi ích đối với các bạn học sinh, sinh viên và chắc hẳn có cả các bậc đàn anh nữa.
Một năm mới đã sang, có lẽ sẽ dành thêm thời gian chăm sóc trở lại blog. Vấn đề là chưa nghĩ được nội dung gì...
Chúc mừng Năm mới.
Chúc các bạn hạnh phúc, may mắn, thành công và thành đạt.

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Đi tìm phong cách chung của văn học

Đi tìm phong cách chung của văn học
 Trong các vấn đề về phong cách văn học ở ta, cho đến nay, trong các công trình, giáo trình lí luận phần lớn đều nói tới vấn đề phong cách cá nhân của nhà văn. Các khía cạnh khác của phong cách như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, phong cách dân tộc tuy cũng có được nhắc tới nhưng hầu như chưa được bàn bạc và vận dụng vào thực tiễn bao lăm. Theo nhịp độ phát triển và giao lưu, hội nhập của cuộc sống hôm nay, vấn đề phong cách chung được nhìn nhận rõ hơn và đã đến lúc cần xem xét cụ thể vấn đề rất phức tạp này.
Nhìn vào lịch sử vấn đề, thì từ xa xưa cho đến hiện đại, trên phạm vi toàn thế giới, vấn đề phong cách chung bao giờ cũng được xem xét bên cạnh phong cách cá nhân, thậm chí là mẫu số chung để nhìn nhận ra phong cách cá nhân. Ở thời Hi Lạp cổ, theo Aristote, phát ngôn lí tưởng là kết hợp hài hòa giữa logic và cảm xúc mà dấu hiệu của nó là có kết cấu và có phong cách. Kết cấu đòi hỏi bài văn phải có bố cục gồm nhiều phần liên kết hợp lí, còn phong cách đòi hỏi phải có các phẩm chất chung, cơ bản và các phẩm chất cá nhân. Phong cách được hiểu chủ yếu là phong cách ngôn ngữ, các phương tiện của nó là cách sử dụng đúng đắn các từ đồng nghĩa, đồng âm, các tính ngữ, các ẩn dụ… Aristote viết trong Tu từ học (Rhetorica) như sau: “Phong cách sẽ có được các phẩm chất cần phải có, nếu như nó tràn đầy tình cảm, nếu như nó phản ánh được tính cách và phù hợp với tình hình thực tế của sự vật”. Các phẩm chất cơ bản đó còn thể hiện qua nhịp điệu, bố cục… theo ông, phong cách (ngôn ngữ) phải được trau chuốt và trang nhã. Đó chính là phong cách ngôn ngữ chung của ngôn ngữ văn học. Đardi và Vamana, hai nhà lý luận văn nghệ cổ Ấn Độ trong các công trình của mình (Kaviadarsa vàKavialankarasutra) cũng đã trình bày học thuyết về các phẩm chất của phong cách chung - phong cách hay, bao gồm cả các yếu tố tu sức ngôn từ tiêu biểu cho các tác phẩm, đặc biệt là nguyên tắc dhvani - ám thị, chứ không biểu trực tiếp, làm cho văn bản giàu chất thơ. Các nhà lý luận cổ điển Trung Quốc như Lưu Hiệp, Chung Vinh, Tư Không Đồ cũng nêu ra tư tưởng về chuẩn mực văn chương như, “lục nghĩa” của Lưu Hiệp. Như vậy, phong cách chung như là chuẩn mực của văn chương đã được đề xuất từ sớm.
Khái niệm phong cách cá nhân  thực sự được đề xuất từ thế kỷ XVIII. Với Buffon, phong cách là sự biểu hiện hoàn mỹ vào tác phẩm cái nhân cách, tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Xin lưu ý là khái niệm phong cách của Buffon không chỉ áp dụng cho văn học, mà cho mọi sáng tác về tư tưởng như khoa học, triết học, lịch sử. Về sau Marx cũng sử dụng khái niệm phong cách này để đánh giá tác phẩm về kinh tế học của Prudon. Tư tưởng này được Dideraut, Flaubert (Pháp), Rauli (Anh) tán thành.
Với Goethe, phong cách là sự thống nhất chủ quan và khách quan trong sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên mọi sự mô phỏng giản đơn đối với tự nhiên, vừa vượt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ quan của nhà văn. Với Hégel, phát triển tư tưởng của Phôn Rumô, phong cách được hiểu là phương thức biểu hiện, quy luật nghệ thuật của một loại hình nghệ thuật nào đó: phong cách thơ, phong cách nhạc kịch.
Như vậy ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, khái niệm phong cách không phải chỉ nhấn mạnh vào phong cách cá nhân. Đi vào lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ phải nhường chỗ cho các phương diện khác như cá tính, quy luật nghệ thuật. Đáng chú ý là chính vào thế kỷ XVIII, khi khái niệm phong cách cá nhân được đề xuất thì tại Đức, nhà mỹ học Winc Kelmann đã đưa ra khái niệm phong cách như một phạm trù của lịch sử nghệ thuật. Ông đã nói đến phong cách thời đại và phong cách cá nhân nghệ sĩ trong các dân tộc; do thời đại đổi thay mà nghệ thuật có những phong cách khác nhau... Ví dụ, ông chia nghệ thuật Hi Lạp cổ làm 4 thời kỳ với 4 phong cách: Phong cách đường nét, Phong cách cao cả, Phong cách đẹp, Phong cách chiết trung.
Sang thế kỷ XIX, H. Taine trong Triết học nghệ thuật (1865-1869), quan niệm văn hóa lịch sử về văn học nghệ thuật dựa trên cơ sở mô phỏng đời sống, cũng nói tới phong cách thời đại. Chẳng hạn, phong cách nghệ thuật Hi Lạp cổ, phong cách Cơ đốc giáo, phong cách tao nhã quí tộc cung đình thời Louis XIX có ảnh hưởng tới hầu như toàn châu Âu: Ý, Anh, Nga, Đức, Tây Ban Nha. Khi nào văn học xa rời thực tế thì phong cách suy thoái .
Vào thế kỷ XX Ken Viper trong sách Lịch sử các phong cách của nghệ thuật tạo hình (1910), Henrích Vônfơlin trong công trình Các khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật - Vấn đề tiến hoá của phong cách trong nghệ thuật mới (1915), tác giả Mỹ W. Fleming trong sách Nghệ thuật và quan niệm (1947), cũng đều lấy khái niệm phong cách chung, phong cách thời đại, trào lưu để nghiên cứu mô tả quá trình lịch sử của nghệ thuật. Nhà nghiên cứu văn học Nga D.S. Likhachov nhận định “Trong thời đại chúng ta có thể nói về phong cách thời đại, như phong cách barôcô trong chừng mực mà nó thể hiện trong tất cả các loại hình hoạt động nghệ thuật, trong những giới hạn thời gian và giới hạn địa lý”. Phải chăng trong mọi thời đại đều tồn tại cái mà chúng ta có thể gọi là phong cách thời đại . Xem thế đủ thấy trong lịch sử văn học nghệ thuật khái niệm phong cách chung luôn luôn có vai trò của nó, bên cạnh khái niệm phong cách cá nhân. Thậm chí nó còn có cả vai trò trong các thời đại, khi điều kiện để xuất hiện phong cách cá nhân chưa chín muồi.
Các công trình lí luận đầu thế kỷ XX như của V. Girmunski, của E. Utitz đều đặt khái niệm phong cách thời đại vào vị trí quan trọng của lí luận về phong cách.
Thế nhưng về phương diện lí luận, trong giới lí luận các nước xã hội chủ nghĩa  trước đây, đặc biệt từ khi lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX, người ta có xu hướng chỉ thừa nhận phong cách cá nhân như là sự thể hiện đa dạng của phương pháp chung, sự thống nhất về phương pháp và sự đa dạng của phong cách cá nhân, và như vậy đã thu hẹp phạm vi biểu hiện của hiện tượng phong cách, xa rời một truyền thống nghiên cứu đã có hàng trăm năm.
Công trình Lí luận phong cách (1968) của  N. Sokolov có thể coi là tác phẩm đầu tiên trong các nước xã hội chủ nghĩa đặt lại vấn đề phong cách. Ông khẳng định phong cách là một hiện tượng nghệ thuật, thể hiện quy luật của nghệ thuật, là phạm trù thẩm mỹ trong tất cả mọi nghệ thuật. Bản chất của nó là sự thống nhất của mọi thành tố nghệ thuật theo những quy luật đặc thù. Đi theo quan điểm của một loạt tác giả như: H. Vônfơlin, V. Handenstein, Phơ rích, K. Viper, chủ yếu chỉ thừa nhận phong cách như một hiện tượng lịch sử, xã hội, thời đại chứ không phải thừa nhận phong cách cá nhân! Ngược lại với quan điểm quen thuộc của Trofimov, Timofiev, Elsbes, M.B. Khravchenko... N. Sokolov cho rằng “Xem phong cách là hiện tượng cá nhân dễ đưa đến sự phủ nhận bản chất xã hội của nó. Không có phong cách cá nhân tách rời xã hội”. Ông không xem cá tính sáng tạo cá nhân (theo cách hiểu của Khravchenko) là nhân tố tạo thành phong cách, bởi vì theo ông, nếu đã xem phong cách là một quy luật của nghệ thuật thì không được xem nó như là biểu hiện của cá tính sáng tạo vốn là một hiện tượng tâm lý, bởi hai phương diện đó nằm ở hai bình diện khác nhau. Xin lưu ý thêm, cũng vào lúc này (1967) G. Antoine  ở Pháp đã nói Saint Beuve không hiểu gì Stendhal bởi vì ông mải đi tìm tiểu sử của ngài Beile! Từ đó ông cho rằng phong cách cá nhân là sự biểu hiện của phong cách chung, tức là phong cách thời đại, phong cách trào lưu. Ông đã lập luận rằng, nếu phương pháp chung có sự thể hiện riêng về mặt cá nhân thì đó sẽ là phương pháp riêng chứ không phải là phong cách riêng. Còn đã nói phong cách cá nhân thì đã là sự thể hiện riêng của phong cách chung phải phục tùng quy luật chung. Như vậy, người ta không thể nghiên cứu phong cách riêng mà không xét đến phong cách chung.
Đã đến lúc phải đi tìm những biểu hiện và cơ sở lý luận của phong cách chung, bởi vì sự vận động của văn học không thể chỉ là sự tích luỹ không ngừng các phong cách cá nhân mà còn ở chỗ mỗi giai đoạn văn học đều mang lại cho lịch sử một phong cách mới, và không có lý do gì để chỉ nói phong cách cá nhân mà dè dặt, không nói đến phong cách chung. Mặt khác, phong cách cá nhân không thể tự nó hình thành mà không có tác động của một phong cách chung nào đó. Trong truyền thống nghiên cứu văn học Trung Quốc xưa, người ta đã phân biệt được phong cách văn học Hán với phong cách thời Lục Triều, phân biệt được phong cách Đường với phong cách Tống, phân biệt Nguyên, Minh, Thanh. Ở phương Tây, cùng là nghệ thuật thời trung đại, nhưng người ta phân biệt phong cách Bizantin thời kỳ đầu với phong cách La Mã tăng lữ và phong cách La Mã phong kiến; cùng là phong cách Barroco nhưng người ta phân biệt phong cách Barroco Venise, phong cách Barroco thời chống cải cách tôn giáo, phong cách Barroco quý tộc thời Louis XIV, phong cách Barroco hạn chế của thời khôi phục vương triều. Những điều đó đã trở thành thường thức các giáo trình về lịch sử nghệ thuật .
Vậy phong cách chung là gì? Nó có những đặc điểm gì?
Theo D.S. Likhachov, thứ nhất, phong cách chung là phong cách nghệ thuật mà nó vượt lên trên chất liệu cụ thể như ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, thể loại, cá tính, để có thể có đặc điểm chung, ảnh hưởng tới các loại hình nghệ thuật khác nhau. Chẳng hạn như phong cách Barroco đã nói ở trên, thể hiện trong hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, văn học. Tương tự, phong cách lãng mạn trong văn học 1932-1945 của Việt Nam vừa thể hiện trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, trong thơ mới, trong âm nhạc và trong hội hoạ. Trong văn học, phong cách chung thể hiện ở tất cả mọi thể loại, và đó là một lớp, một phạm trù phong cách bên cạnh các lớp khác như phong cách cá nhân, phong cách dân tộc, phong cách trào lưu…
Thứ hai, phong cách chung, đặc biệt là phong cách thời đại là sự biểu hiện của trình độ kỹ thuật biểu hiện, của trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã hình thành nên phong cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế giới và con người, cảm thụ bản thân nghệ thuật. Chẳng hạn nghệ thuật Ai Cập cổ đại có nền tảng là tôn giáo Ai Cập, tôn giáo về cái chết; trái lại, nền tảng của nghệ thuật Hi Lạp cổ đại là thế giới quan yêu đời. Khi nào nội dung và hình thức cuộc sống đổi thay thì nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó cũng thay đổi, và sự đổi thay đó “chính là đổi thay phong cách” (E.Utitz: Phong cách là gì?).
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, giới khoa học đã nói đến phong cách cá nhân của các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu; cũng đã nói đến phong cách hiện thực, phong cách lãng mạn. Nhưng cũng có thể  nói đến phong cách thời đại thể hiện ở các điểm sau:
+ Một là, quan niệm lí tính đối với cuộc đời, niềm tin vào khoa học, tiến bộ, lẽ công bằng, tư tưởng  bình đẳng, tự do. Khi Thơ mới đòi hỏi thể hiện nhu cầu giải phóng cá tính trong tình cảm cũng là lúc các tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đấu tranh cho các quyền con người của cá nhân; và cũng là lúc các tiểu thuyết hiện thực lên án xã hội bất công chà đạp lên số phận con người sau luỹ tre làng. Một số nhà văn Tự lực văn đoàn có phong cách hiện thực chính là do ảnh hưởng của phong cách thời đại trong cảm hứng tố cáo và trữ tình. Văn học Cách mạng xuất hiện trong giai đoạn này cũng mang tính lý tính và tính lý tưởng rất đậm.
+ Hai là, sự hiện đại hoá đồng loạt các thể loại văn học do tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch nói, du kí, tuỳ bút, phê bình văn học nhất loạt xuất hiện, thay thế hẳn các thể loại truyền thống. Các hình thức truyền thống như thơ bảy chữ, năm chữ, lục bát,… đều được cấu trúc lại.
+ Thứ ba, các nhà văn, nhà thơ dù sáng tác theo thể loại nào đều đã cắt đứt với truyền thống tập cổ mà tự mình cấu tứ, sáng tạo, vai trò chủ thể của tác giả đặt lên hàng đầu. Người ta phân biệt rõ ràng sáng tác và phóng tác, lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao… cùng một loạt nhà Thơ mới đa dạng về phong cách cá nhân đã tiêu biểu cho ý thức chủ thể nổi bật, như là một đặc trưng của phong cách thời đại.
+ Thứ tư, khác với lối văn truyền thống nặng về vần điệu đăng đối với điệu ngâm nhịp nhàng, lối văn hiện đại chuyển hẳn sang văn xuôi: văn tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự mang hình thức khẩu ngữ, kịch hoá, thân mật, suồng sã trong khoảng cách gần, lời thơ về cơ bản là mang hình thức điệu nói đầy giọng điệu giãi bày, tâm tình.
Một yếu tố quan trọng nữa của phong cách là cách bố cục, kết cấu, tổ chức nội  dung tác phẩm, thể hiện cách cảm thụ của tác giả là người đọc kiểu mới. Điều nổi bật của văn học giai đoạn này là kết cấu mở, mở từ giữa chừng và kết thúc lửng. Văn đã vậy mà thơ cũng vậy.
Những đặc điểm trên đây xác định phong cách thời đại cơ bản trong văn học 1930-1945, cho phép phân biệt nó với văn học giai đoạn trước và sau đó.
Phong cách thời đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất, nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hoá theo các yếu tố khác như phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm mỹ. Nhưng phong cách thời đại do xây dựng trên nền tảng trạng thái văn hoá xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
Phong cách văn học dân tộc không giản đơn chỉ là tính độc đáo dân tộc về đề tài, chủ đề, ngôn ngữ, thể loại mà còn là quy luật riêng của sáng tạo nghệ thuật. Phong cách dân tộc qua các thời kỳ đều có sự đổi thay và phát triển, cho nên theo Sokolov, có thể nói đến các phong cách dân tộc.
Cũng vậy, phong cách trào lưu tuy một mặt có phạm vi bao quát nhỏ hơn phong cách thời đại và dân tộc, song xét về mặt khác nó lại rộng hơn, có tầm vóc quốc tế. Phong cách thời đại trong giai đoạn tăng cường giao lưu quốc tế cũng có tầm vóc quốc tế. Trong các tương quan đó, dân tộc là phạm trù cho sự kết tinh phong cách thời đại và trào lưu. Khi xét tới phong cách chung, thiết nghĩ phải tính đến các tương quan ấy với nhau mới làm sáng tỏ một phong cách nào đó.
Xét về bản chất của phong cách, cho đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên có thể nhìn phong cách theo bốn phương diện liên quan chặt chẽ với nhau như sau.
1. Phong cách là dấu hiệu độc đáo, không lặp lại, đánh dấu phẩm chất thẩm mỹ riêng biệt của một hiện tượng văn học nào đó. Phong cách hoặc là “con người”, là sự sáng tạo, sự mới mẻ làm nên vẻ riêng biệt ít thấy ở hiện tượng văn học khác nhưng lại nhất quán, xuất hiện thường xuyên ở hiện tượng văn học cụ thể. Cần hiểu rằng sự bền vững, nhất quán nói ở đây là nói từ cái cốt lõi, cái trong bản chất, còn trong quá trình triển khai thì phong cách lại đòi hỏi sự đa dạng và đổi mới. Muốn đạt được yêu cầu ấy, phong cách cần phải có phẩm chất thẩm mỹ, nghĩa là khi nói tới một hiện tượng văn học nào đó có phong cách thì hiện tượng văn học ấy phải mang lại cho người đọc, người xem, người nghe một sự hưởng thụ thẩm mỹ dồi dào. Ở đây cũng cần lưu ý thêm một điểm: phong cách phải có phẩm chất thẩm mỹ nhưng phẩm chất này không chỉ thuần túy về mặt hình thức, kỹ thuật mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể nó sẽ được biểu hiện chủ yếu ở phạm vi nội dung hay phạm vi hình thức.
2. Phong cách là phẩm chất của chỉnh thể. Khi định nghĩa về phong cách, dù có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, nhưng các định nghĩa đó đều đề cập đến “tính hệ thống”, “tính thống nhất”, “tính tổng hòa”... Điều này chứng tỏ, phong cách là phẩm chất của hệ thống thể hiện qua các yếu tố chứ không phải là phẩm chất do tổng cộng các thuộc tính của các bộ phận của tác phẩm. Phong cách là phẩm chất xuyên suốt qua các yếu tố tác phẩm, qua các tác phẩm của một tác giả hoặc các tác giả của một trào lưu nghệ thuật. Ngay cả khi nói phong cách nghệ thuật là tính độc đáo của hình thức nghệ thuật thì cũng phải thấy rằng đó không phải là hình thức cụ thể của một tác phẩm cụ thể, cá biệt là cái hình thức được lặp đi lặp lại, vừa thống nhất vừa đa dạng trong nhiều tác phẩm khác nhau của một nhà văn, một trường phái hay một thời đại văn học, nghệ thuật (khi chúng ta nói về phong cách Nguyễn Tuân, phong cách Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1932-1945, v.v... là đứng trên quan niệm này). Vì thế, có thể nói phong cách nghệ thuật là hình thức siêu hình thức cụ thể của sáng tác nghệ thuật.
3. Phong cách là phẩm chất tương đối ổn định của sáng tác. Các đặc điểm của nó được lặp đi lặp lại tương đối thường xuyên, ít thay đổi. Nhưng đây là ổn định trong sự phong phú đa dạng, có biến đổi chứ không phải là sự lặp lại giản đơn, nghèo nàn. Tuy nhiên cần lưu ý rằng sự ổn định là cơ bản, nhờ thế nó mới trở thành phong cách để phân biệt với các phong cách khác. Chẳng hạn, có thể nói tới phong cách trữ tình của Tố Hữu bởi nét trữ tình này về cơ bản là ổn định, được lặp đi lặp lại tương đối thường xuyên trong các sáng tác của ông. Nhưng trữ tình trong Từ ấykhông hoàn toàn giống trữ tình trong Việt Bắc, nó cũng khác với trong Gió lộng, Ra trận, và đặc biệt là khác với trữ tình trong Một tiếng đờn.
4. Phong cách là hình thức của chủ thể. Phong cách là gương mặt tinh thần, Buffon đã từng khẳng định: phong cách là bản thân con người. Dĩ nhiên, người ở đây không phải là con người trừu tượng, chung chung mà là người với những phẩm chất trí tuệ, tình cảm, cá tính cụ thể. Nhưng cũng không thể giản đơn coi văn như con người mà đó là tài năng tư duy, tổ chức của con người. M. Bakhtin khẳng định tính tích cực của chủ thể trong sáng tạo hình thức, khẳng định cái nhìn mới là yếu tố căn bản của phong cách nghệ thuật. M. Prust, D.S. Likhachov cũng đồng tình với quan niệm này. Tư duy, hệ hình tư duy, thái độ cảm xúc, quan niệm giá trị tạo thành hình thức cảm nhận của chủ thể. Hình thức cảm nhận của chủ thể dẫn đến những phát hiện mới về hình thức, bút pháp, kỹ thuật, tạo thành nền tảng của phong cách. Nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc Lý Trạch Hậu cho rằng lịch sử của phong cách là lịch sử tâm lý cảm nhận của nhân loại hay dân tộc. Đó là hình thức của chủ thể, cho nên phong cách có quan hệ mật thiết với phương pháp nghệ thuật.
Như vậy có thể hiểu, bản chất nghệ thuật, thẩm mỹ của phong cách là: không phải mọi hình thức chủ thể có thể tạo thành phong cách mà là các hình thức chủ thể tạo thành giá trị nghệ thuật. Vì thế, Viper, Sokolov đều cho rằng có những tác phẩm không có phong cách, có những giai đoạn giao thời không có phong cách.
                                                *
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, khi đề cập đến vấn đề phong cách thì không chỉ nói đến một cấp độ phong cách nhà văn hay phong cách tác phẩm mà còn phải nghiên cứu kỹ càng các cấp độ khác như phong cách thời đại, phong cách trào lưu, trường phái... Từ phong cách cá nhân nhà văn đến phong cách thời đại, trào lưu đều được soi rọi dưới ánh sáng của phong cách chung. Ví dụ, khi chúng ta nói đến phong cách hiện thực chẳng hạn. Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu văn học, ngoài sự thống nhất về phương pháp sáng tác còn có sự thống nhất về phong cách. Trước hết là chi tiết chân thực của đời sống hàng ngày dùng để dệt nên bức tranh đời sống như nó vốn có - đây là nguyên tắc mô tả nên nó thuộc phạm trù phong cách. Đặc điểm thứ hai, như Engels nói, chủ nghĩa hiện thực không muốn bộc lộ khuynh hướng một cách lộ liễu mà muốn nó được toát ra từ tình huống - đây lại thuộc phương thức thuyết phục người đọc và phương thức biểu hiện cách chiếm lĩnh đời sống như M.B. Khravchenko từng nói. Một đặc điểm nữa của phong cách hiện thực, theo D.S. Likhachov diễn đạt, là khoảng cách gần gũi của người kể chuyện đối với nhân vật, thâm nhập vào nội tâm, kể từ bên trong. Đặc điểm cuối cùng là sự bộc lộ yếu tố cá nhân và phong cách cá nhân nhà văn.
Đặc điểm phong cách chung này làm cho hiện tượng phong cách cá nhân của trào lưu hiện thực phong phú và đa dạng chưa từng có. Hay khi chúng ta nói phong cách thời đại cũng vậy. Khái niệm phong cách thời đại dùng để chỉ một phong cách chung, phong cách lớn bao trùm mọi thể loại trong một loại hình, mọi loại hình trong thời đại ấy. Sự bao trùm này không chỉ ở một quốc gia, dân tộc mà nó chứa đựng tính chất xuyên dân tộc, xuyên quốc gia cùng chịu sự chi phối chung của một ý thức hệ nhất định, ví dụ như ý thức hệ tôn giáo trong phong cách Gotic bao trùm hầu hết các dân tộc từ phương Tây đến phương Đông, hay ý thức hệ vô sản trong phong cách thời đại của các nền văn học nghệ thuật từ thập niên 20 đến thập niên 90 của thế kỷ XX ở các nước Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, v.v....
Thực tế này khiến chúng ta nghĩ rằng, không thể không nghiên cứu kỹ càng vấn đề phong cách chung của văn học. Ngược lại, chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện hành trình “đi tìm” nó một cách cẩn trọng để cho thấy, sáng tác văn học trong một thời đại nào đó, một dân tộc nào đó không phải là tổng cộng giản đơn các phong cách cá nhân đa dạng mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại tạo thành một phong cách bao trùm lên các phong cách cá nhân mà ta có thể gọi là phong cách chung của văn học.
TS. Nguyễn Khắc Sính
Bài được đăng bởi biên tập viên Quỳnh Hân vào lúc 09:25 - 28/03/2012