Khiemnguyen

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013

Văn học Việt Nam hiện đại VĂN LAN KHAI



Trương Tửu
(Đăng trên báo Loa, số ngày 19/9/1935)


Muốn ghi chép hình ảnh ngoại giới, hội họavăn chương dùng những phương tiện khác nhau. Bằng những nét, những mầu, nhng dáng, họa sĩ có th khôi phục cái linh động của một vật, một cảnh. Một bức tranh kiệt tác cho ta cảm tưởng đng trưc thực trạng của đối tượng bị vẽ. Nhiu khi nó lại truyền cho ta những cái thú đậm đà, kín đáo vì, thuộc về nghthuật nó phải hoàn toàn vì nguyên tố (élémenls constitutijs). Được vậy là vì họa sĩ dùng chất đề ghi chép cht. Tt cả những biến thể của mầu sắc (nuances de couleur) họa sĩ in lên mảnh vải y hệt được bng thuốc vẽ.
Chái lại, muốn tả cảnh, nhà văn chỉ dùng chữ, một th du hiệu nhân  tạo, tự nó không có nghĩa. Nên văn chương chỉ có th làm ta trông thấy (faire voir) cnh vật, nh sự hiu và sự cảm (tôi muốn nói: tri giác và tưởng tượng).
 Với thuốc vẽ, họa sĩ tô một màu sc đủ tha mãn th quan, mặt chữ dù có sc gợi khêu (pouooir cvocateur) đến đâu cũng phải cậy tưởng tượng mới làm ta thy được thứ nó hình dung. Bởi vy, nhà văn phải cầu cứu đến nhiều phương hoạch đ tả cảnh. Phương hoạch trọng yếu nhất là hình tượng (image) với tất cả những cách chuyn tính chất của cái này cho cái khác (tiếng Pháp gọi là mélaphòre. Thí d muốn tả sc trắng của mái tóc phải muợn sắc trng ca cht bạc - argent): tóc bạc, da mồi.
Cách chuyển tính y biến thành lối so sánh, lối ví (comparaíson): (đen như mực, đỏ như son, đói như cào).
Như vậy, tức là phải mượn tính chất của một thứ dễ tưởng tượng chuyn sang một thứ khó tưởng tượng. Tài tình của nhà văn tả cảnh ở chỗ biết thực hành nguyên lý ấy.
Chữ dùng thường chia làm ba loại:
1. Chữ làm cho hiu (mols abslrails).
2. Chữ làm cho cảm (mols sensibles).
3. Chữ làm cho xúc động giác quan (mols concrels).
Nhà văn tả cảnh phải k loại th nht, ít dùng loại thứ hai, khéo dùng loại thứ ba.
Ở loại này, mỗi chữ là một hình tượng, tổng hợp nhiều thuộc tính (Thí dụ nói mắt bồ câu, chữ bồ câu vẽ ngay trong ký ức tả một con chim với cặp mắt gồm những tính cht chong chẻo, sán lạn, tình tứ, hình bầu dục, nét thanh thú).
Nếu biết đem hình tượng này ví với hình tượng khác, thì t cảnh được quá trị và lỗi lạc vô ng vì văn chương, nhờ có tài liệu phong phú hơn hội họa, còn diễn được cả những cái vô hình.
Luận như vậy, đ thiết lập ra nguyên lý của nghệ thuật tả cảnh, tóm tắtmt định luật: Biên chép cảnh vt bằng hình tượng.
Căn cứ vào luật này, tôi có thể nói: trong các nhà văn tả cảnh hiện đại, ông Lan Khai đáng liệt vào một địa vị danh dự.
Ông Lan Khai là người chỉ cảm, chỉ nhìn bng hình tượng. Thy một vật, trong trí tưởng ông, tự nhiên - tôi nói tự nhiên – nẩy ra hình ảnh một vật khác, tuơng tự. Đặt bút ra là ông đặt ngay trên giy vật trong thực tế và hình tượng đột hiện.
 Vì thế nên văn ông bóng by, đẹp đẽ. Không mấy khi ông tả mầu sc bằng một cộc lốc. Ông phải dùng lối ví:
Mái tóc, màu hạt dẻ....
Đnh núi xa màn lơ nhạt…”.
Suối nước đen như mực loãng...”.
Luôn luôn, trang này qua trang khác, ta gặp những hình hượng như thế, làm trí tưởng ta phải làm việc một cách đột ngột bằng luật liên tưởng.
Nhìn những vũng nước nh rải rác trên mặt đất” phản chiếu ánh mặt trời, ông Lan Khai liền nghĩ ngay đến những mảnh gương vụn nát.
Đọc câu này, ta phải lò mò theo cái lịch trình quan sát và sáng tạo của tác gi. Ta sẽ thấy: một hình tượng ở Lan Khai, là kết quả trực nhiên của một việc làm tinh thần (un travail mental) trong đó, chsự có giác quan, ký ức và chí tưởng.
Bởi l đó, văn Lan Khai tng hợp, đằm thm và d cảm động.
Ông còn có nhiều thuật khác khiến tác phm của ông là một cái nguồn dồi dào về hình  tượng cho nhà tu từ học.
 Khi ông diễn cái trừu tượng bằng cái hữu hình:
Chàng thấy nỗi buồn kẽo cọt trong lòng như mt con sâu đục khoét gốc cây...”.
 Mỗi khi một mình bóng chiếc, cảnh tượng ấy thường hiện ra trong trí nhớ... làm cho tâm hồn chàng vn lên như một giòng nước đc...”.
Cái yên tĩnh dần dần buông xuống như một lần chăn êm dịu ph khp mình chàng...”.
“Tấm lòng chàng chng chải như quán chợ chiều thu...”.
Cuộc đời như cái thây lạnh gói kín trong bức khăn liệm trắng...”.
Khi ông tả cái cụ th bằng cái vô hình:
 Tự mái tranh, khói bốc lên, nghi ngút như những ý nghĩ vn vơ lần bay về cõi mộng”.
Cuộc đời ở Hoàng Tsủ Phì luôn luôn giu kín trong khói sương, giống như một cái huyền bí xa xôi”.
Đó là một chứng c cho câu tôi viết: ông Lan Khai nghĩ bằng hình tượng. Khi ông cho vật vô tri một sinh hoạt nhân loại: Đỉnh núi xa, màu lơ nhạt, như c vươn lên đ tiếp ly cái ơn huệ trước nht của thái dương...”;
Hai miếng vá (của cái quần mt anh Thổ) căng thẳng trên hai đầu gi há hốc ra cười; nhe lượt ng chỉ trng phau”.
Thnh thoảng dưới ngòi bút Lan Khai, hình tượng nọ tiếp hình tượng kia đ thành một điệu dài làm người đọc như bị sảng không biết mình trong mộng hay trước cảnh thực. Đại biu lối văn này, có đoạn tả nàng Tsí Đòa tắm, trong tiu thuyết Lô Hnồ:
Dưới bức trần lá xanh, một phiến đá trắng như ngọc, phng như giường. Những lá cơm lênh mông buông rủ như một bức màn gm... Thạch bàn ở ngay bờ suối, giòng nước, từ vách núi bên kia rót xuống, vp vào những tảng đá mp mô bắn tóe như một đám mù. Trước khi chảy xung lòng khe, bao nhiêu nước rồn cả vào một cái vũng lớn, tự my nghìn năm, do nước khoét vào đá thành như một cái bn tm thiên nhiên. Nàng tiên khỏa thân ngi trên miệng bn, cái nhìn bóng mình chắp nối trong vành gương lung lay...”.
 
 Đây không phải là bức tranh; cũng không phải là bức trạm. Đây là một bài thơ tết bằng hình tượng. Lấy sự mê man của ta mà đoán, ông Lan Khai, lúc t cảnh nàng Tsí Đòa tắm, phi say sưa, sảng khoái, phi st rét lên - như người Pháp thường nói. Đoạn văn tôi vừa trích đựng hầu hết những đặc sc của văn ông.
Tôi không quên rằng ông Thế Lữ thỉnh thoảng cũng dùng những hình tượng rt tài tình. Tôi chỉ muốn nói, Thế Lữ, đó là ở những phương hoạch viết văn (procédéde style) ở Lan Khai, là một cách cảm giác và quan sát, một trạng th sinh hoạt tinh thần (un mode de viè mentale).
Ngoài lối tả cảnh bóng by, văn Lan Khai còn đặc biệt cách phô diễn.
a). Ông dùng những chữ hình tưng rất khéo:
Đất rung động lên như chuyên mình
“Trên quãng đồng không, Lô Hno như đơng lại một phần hồn
Cái yên tĩnh dần dn buông xuống...
Không khí chong sạch... gạn hết trn căn...
Gió thi như dán quần áo vào người”
b) Ông có những lối đặt câu rất mới:
Dân nô nức đi xem (h Lãng Bạc) bạt ngàn cả trên bờ. Ai nấy trố mắt nhìn như nhìn một cái hiện tượng...”.
... Dưới ánh đèn và ánh trăng, gương mặt Chiêu Thánh công chúa thực là mt bài thơ tuyệt đẹp vnh”.
Văn Lan Khai điêu luyện trông thy. Có th nói: Nó ngửi thy mùi dầu hỏa ông đã mạnh bạo ứng dng cách diễn ý, tả cnh của Pháp văn vào văn quốc ngữ, cái mà nhiều nhà văn cho là ngô nghê và kiểu cách.
Theo ý tôi sự muộn ấy phải được hoan nghênh:
1. Vì như vậy, quc văn mới đầy đủ.
Chúng ta hiện nay đu nghĩ, cảm, nhìn theo y học cả. Quốc văn nhiều khi không thề giúp ta diễn tất cả những ý nghĩ, tả tt cả những cảnh vật vì nó là kết   qủa của một hoàn cảnh đơn giản. Bây giờ, ta sống trong một hoàn cảnh (xin hiểu theo nghĩa hết sức đy đ của nó). Ta phải dự bị cho quốc văn một sinh hoạt mới, nghĩa là một thể cách mới. Tôi nói thể cách chứ không nói bản chất. Mỗi thứ tiếng có một bản cht bt diệt ta chỉ có quyn đặt vào nó những sợi tơ mới. Nó là cái khung vô hình, định phá bỏ nó là tỏ rằng mình không hiu những luật tự nhiên của ngôn ngữ.
 Nên khi thy người viết: Xâm chiếm hn tôi, một mối sầu gay gắt” tôi chịu Thy người viết “ Nàng, với ai tôi nói chuyện tôi bất mãn.
Bất ­mãn thôi, khônq chán ngán, vì tôi tin rằng mội nhà văn tha h muốn viết thế nào thì viết chỉ phí công, tốn giấy mực vô ích. Quốc văn không phải vì thế mà hư hỏng. Thời dan và lý trí sẽ dần dần tiêu hủy những câu văn thất cách.
2. Vì sự mưn ấy đã được chứng nhận trong lịch trình tiến hóa của quốc n.
Từ 1903 đến 1935 văn quốc ngữ, theo tôi thấy đã năm lần đồi hình dạng. Thoạt tiên, lúc các nho sĩ Phan Sào Nam, Ngô Đức Kế, Nguyễn Bá Học, Huỳnh Thúc Kháng) viết quốc văn, thì nó nhịp nhàng, uyn chuyn, hoàn loàn theo lối phú. Báo Nam Phong ra đời đem lại cho quốc văn một cái áo mới. Dưới ngòi bút Phạm Quỳnh, nó sáng sủa, mm mại, nhưng nó vẫn dài và nặng. Tuy vậy, nếu ai đ ý đọc hẳn thy tiên sinh diễn ý theo Pháp văn nhiều lắm. Đột ngột, Hoàng Tích Chu xách cặp v nước. Xut hiện giữa làng báo một lối văn cộc lốc, mạnh mẽ mẽ, đinh thép. Cú pháp theo tây học gần hết. Các cách thức phô ý đu mượn trong Pháp văn. Nhưng vì ông không được sống đến nay để phụng sự nó, lối ấy bị bắt chước lm lạc thành ngô nghê.
Phn đng nó anh em bên Tự lực văn đoàn viết một lối văn sáng sủa, linh   động, đặc Annam. Những ông Khải Hưng, Nhất Linh có công lo với quốc văn lm. Nhưng vì các ông muốn bình dân văn chương Việt Nam, nên văn các ông còn đứng trong khuôn kh cũ. Bởi vậy, nên ta được đọc trong Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt… những câu dài lằng nhằng nối vào nhau bởi những thì, mà, làThứ văn y, người thường dân đọc hiểu ngay. Tự lực văn đoàn ở phương diện này hoàn toàn đạt mục đích.
Nhưng các ông bên văn phái y cũng đã công nhiên dùng lắm cách phô diễn rt y (tôi không cần phải k thí d). Nếu các ông k cho bình dân hiểu - ôi bình dân Việt Nam! - thì tôi chắc rằng đọc nhng câu phỏng theo cú pháp tây họ chng tài nào hiểu được.
Không! không phải mượn cách phô din của tây mà làm quốc văn mt đặc   tính Annam đâu! Tất cả cái gì một người Việt Nam đang có khoa học và nghệ thuật là của dân tộc Việt Nam. Gi quốc văn còn nguyên cht là một cuồng vọng.
Nghĩ vậy, một phái nhà văn mạnh bo theo phương pháp mới viết văn. Trong s đó tôi đếm được Nguyễn Vỹ, Trần Thanh Mai, Hoài Thanh, Lan Khai, Văn TứThế Lữ (ôi mĩa mai!)
Ngó qua sự tiến bộ của quốc văn, ta nhận thấy rõ ràng mỗi ngày nó càng chịu ảnh hưởng xu xa của pháp văn. Phải, không suy nghĩ mới chối cãi sự thực y.
Đem vào văn chương Việt Nam hai đối tượng mới: Rừng rú và Lịch sử. Bằng lối văn tả cảnh bóng by, bằng cách phô diễn phỏng theo Pháp, ông Lan Khai thật là một nhà tiếu thuyết xứng đáng, một nhà văn có giá trị và hy vọng. Phê bình ông, tôi c ý muốn trả lại César, cái gì của César./.

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2013

TẢN ĐÀ – NGUYỄN KHẮC HIẾU CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP



Năm 1942, mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, khi viết bài tổng kết về Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã cung chiêu anh hồn Tản Đà về chứng giám công việc lớp người kế tiếp và mấy chục năm sau, năm 1983, Xuân Diệu thừa nhận Sau khi đã viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, H Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn, nghiền ngẫm tất cả trong khooảng 25 năm, hôm nay tôi mới viết về tác gi quá cố khó nhất so với tám tác giả trước kia, là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Hai hiện tượng đó đủ nói lên vị trí kiệt xuất không thể thay thế của Tản Đà trong nền thi ca Việt Nam nhưng đồng thời cũng phản ánh tất cả tính phức tạp của di sản văn chương cũng như chính bản thân con người Tản Đà.
Không thể phủ nhận, Tản Đà là con người của buổi giao thời. Ông thuộc thế hệ cuối cùng cửa nền khoa cử Hán học Việt Nam (ông kém Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thức Kháng... khoảng một hai chục tuổi) và mất - một cách cô độc - khi mà Thơ mới vừa mới lên ngôi.
Thấm đẫm nền văn hoá truyền thống, Tản Đà thông thạo văn thơ phú lục, văn chương chữ Hán, thông thạo cả từ khúc Trung Quốc, am tường và điêu luyện ca trù, thơ song thất lục bát, lục bát, ca lý truyền thổng. Ông soạn và soạn thành công một số vở tuồng, chèo nhưng đồng thi cũng là một trong số những nhà văn đu tiên thể nghiệm viết tiểu thuyết, văn xuôi nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ, là người đỡ đầu tích cực cho những nhà văn trẻ đương thời. ông, mang cả dáng dấp của những phong lưu tài tử một thời, người bảo vệ danh giáo luân lý truyền thống lẫn những nét cách tân, hiện đại hoá vô cùng táo bạo. Bởi thế nên Hoài Thanh đã phải thốt lên “Tiên sinh gần chúng tôi lắm” và với một con người và một di sản văn học như vậy thì sự phồn tạp của những công trình nghiên cứu về Tản Đà là lẽ đương nhiên. Điều đó, mt mặt, cho phép đối tượng nghiên cứu sẽ được tiếp cận một cách sâu sắc và đa chiều nhưng đồng thi cũng dễ làm lạc lối những ai mới bước đầu tìm hiểu di sản văn học của Tản Đà.
Ý thức được điều đó, chúng tôi xin bước đầu hệ thống những ý kiến, những “lời bình” xung quanh một bộ phận quan trọng - nếu không muốn nói là quan trọng nhất - làm nên di sản văn học Tản Đà: thi ca. đây, khái niệm “lời bình” được chúng tôi sử dụng với một trường nghĩa rộng nhất bao hàm cả những thưởng ngoạn thẩm mỹ cá nhân đối với thơ Tản Đà lẫn những định hướng lý luận để tiếp cận với thơ ca của ông từ những giác độ khác nhau…
Tn Đà - Nguyễn Khắc Hiếu sinh năm 1884 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì - Hà Tây). Thân sinh ra ông - cụ Nguyễn Danh Kế - vốn xuất thân từ một dòng họ khoa bảng quý tộc lâu đời - gốc làng Lủ (xã Kim Lũ, huyện Thanh Trì). Dòng họ Nguyễn của ông Kế từng có nhiều người đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê. Khi Gia Long lên ngôi, dòng họ này có li nguyền không đi thi, không ra làm quan với tân triều. Đến thời cụ Nguyễn Danh Kế, gia cảnh họ Nguyễn đã sa sút nhiều, người ta thường nhắc chuyên ông Kế có thời phải gánh đất nuôi mẹ già. Có lẽ vì bần hàn nên cụ Nguyễn Danh Kế đã phá lời nguyền cũ, ra ứng thí, đỗ cử nhân và làm quan. Vốn là người phong lưu tài tử, cụ Nguyễn Danh Kế thường lui tới chốn bình khang và tại đây, ông đã quen và lấy bà Nhữ Thị Nghiêm, một đào nương ph Hàng Thao - Nam Định. Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu là con út trong số bốn người con của ông Kế và bà Nghiêm. Trước khi lấy bà Nghiêm, ông Nguyễn Danh Kế đã từng có hai người vợ. Dòng máu tài hoa và tính cách phong lưu tài tử của Tản Đà có lẽ cũng được thừa hưởng một phần lớn từ cha và mẹ.
Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi, cụ Nguyễn Danh Kế từ trần và chỉ một năm sau bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ nhà trở lại nghề đào nương. Nguyễn Khắc Hiếu cùng ba anh chị em về sống và chịu sự cưu mang của Nguyễn Tái Tích - người anh cùng cha khác mẹ con thứ ba mẹ cả nhà thơ - người mà Nguyễn Khắc Hiếu vừa coi là anh, vừa là cha, là thầy (ông Tích hơn thi sĩ ba mươi lăm tuổi). Sinh năm 1864, nối nghiệp cha Nguyễn Tái Tích cũng phá lờỉ nguyn cũ của dòng họ, theo đòi cử nghiệp và ra làm quan. Ông là người mà Nguyễn Khắc Hiếu hàm ơn sâu sắc và chịu nhiều ảnh hưởng. Vốn là người nghiêm khắc, nn nếp, tính tình chính trực thanh liêm nên hoạn lộ của Nguyễn Tái Tích cũng không ít gian truân. Suốt cả thời thơ ấu lẫn tuổi thanh niên (tận năm hai tư, hai lăm tuổi), Nguyễn Khắc Hiếu sống cùng vi anh một cuộc đi xê dịch gắn vi những địa phương mà ông Tích được bổ nhiệm, khi Yên Mô - Ninh Bình, khi Vụ Bản - Nam Định, khi Quảng Oai - Sơn Tây, khi nh Tường - Vĩnh Yên.
Sớm nhận thấy những ánh sáng tài năng trong người em cùng cha khác mẹ, Nguyễn Tái Tích hướng em vào con đường cử nghiệp. Hiển nhiên, đó cũng là một nền học vấn đậm dấu ấn của buổi giao thời. Sau này, trong hổi ký tự truyện “Giấc  mộng lớn” Tản Đà có nhớ lại từ thuở lên năm “... đi học con phải có người cõng, về nhà chỉ thích chơi chuồn chuồn…”, khi học ấu học ngũ ngôn thi, nhà thơ đã thích nhất mấy câu “hoa cù hồng phấn nữ, tranh khán lục y lang” và “cái bệnh đa tình bắt đầu từ đấy, cái lòng mê khoa cử bắt đầu từ đấy”. Nếu hình dung lại cuộc đời đi học của Tản Đà theo những gì ông nhớ lại trong một bài thơ hồi ký thì năm 5 tuổi ông đã bắt đầu học Tam tự kinh, ấn học ngũ ngôn thi, Dương tiết; 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ; 10 tuổi tập làm câu đối; 11 tuổi làm thơ và đến năm 14 tuổi thì đã thạo “văn đủ lối”. Năm 1903, Nguyễn Khắc Hiếu 19 tuổi, theo anh lúc đó mớí được phục chức sống Quảng Oai và nổi tiếng tại đấy là “thần đồng” và năm 1909 Nguyễn Khắc Hiếu vào học trường Quy thức - một trường học thực nghiệm chương trình cải cách giáo dục do thực dân Pháp mở tại Hà Nội.
Có thể tóm gọn thời niên thiếu và những năm đầu tuổi thanh niên của Tản Đà vào việc dùi mài thánh kinh hiền truyện, văn thơ phú lục mong thành đạt mng công danh. Trong quãng thời gian này cũng có mấy sự kiện để lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn Nguyễn Khắc Hiếu. Đó là việc năm ông 13 tuổi, người chị ruột của ông theo mẹ làm nghề đào hát. Năm 19 tuổi, Nguyễn Khắc Hiếu đem lòng yêu con gái nhà tư sản Đỗ Thận và đến năm sau, ông lại có “cảm tình riêng” với con gái một người tri huyện ở Vĩnh Tường - Vĩnh Yên, nơi Nguyễn Tái Tích làm giáo thụ.
Năm 1909, Nguyễn Khắc Hiếu đi thi Hương lần đầu tiên ở Nam Định. Hỏng thi, ông v sống với anh ở Vĩnh Tường và ba năm sau lại tiếp tục ra ứng thí. Năm 1912, đầu năm Nguyễn Khắc Hiếu thi trượt kỳ Hậu bổ và cuối năm thi Hương lại không thành. 25 tuổi cuộc đời Nguyễn Khắc Hiếu chuyển sang một bước ngoặt mới, công danh dang dở, chuyện tình duyên (với con gái nhà Đỗ Thận) không thành, Nguyễn Khắc Hiếu trở nên tâm thần điên loạn. Ông vào dãy Hương Sơn, lên núi Chùa Tiên, ngày đốt đuốc đi tìm Hồ quỷ, đêm rằm làm văn tế Chiêu Quân. Mùa hè ông về sống với anh rể - nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế - Nam Định làm quen với nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi, đọc Tân thư, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu v cách mạng Tân Hợi... Cuối hạ, ông về ấp Cố Đằng của Nguyễn Thiện Kế “cái bụng chán, đời đến cưc điểm, quyết mong tịch cốc để từ trần” (Giấc mộng lớn) trong sáu tháng. Năm 1915, Nguyễn Khắc Hiếu lập gia đình với bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri huyện Hà Đông. Cũng trong năm này ông bắt đầu có bài in trên Đông Dương tạp chí vội mục Một lối văn nôm. Một năm sau, Nguyễn Tái Tích qua đi, Nguyễn Khắc Hiếu về sống tại Vĩnh Phú, tiếp tục viết cho Đông Dương tạp chí, bắt đầu lấy tự hiệu Tản Đà. Trong năm này, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà Khối tình con I (thơ) được xuất bản. Đây cũng là thời gian ông viết Giấc mộng con I (sẽ được in năm 1917) và mấy vở tuồng Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn vào năm sau ở Hải Phòng). Năm 1917, Nam Phong tạp chí ra đời, Tản Đà xuất hiện trên tờ tap chí này ngay từ số đầu tiên. Và cung trên Nam Phong tạp chỉ, năm 1918 Phạm Quỳnh viết bài đả kích Giấc mọng con I . Từ đấy Tản Đà bt đầu trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài báo cùa Phạm Quỳnh, Tản Đà thôi không cộng tác với Nam Phong tạp chí. Liền trong hai năm, Tản Đà xuất bản một loạt truyện: Thần tiền, Đàn bà Tàu (1919), sách giáo khoa, giáo huấn luân lý: Đài gương, Lên sáu (1919), Lên tâm (1920); và thơ Cồn chơi (1921). Cũng trong mấy năm này Tản Đà làm quen với nhà tư sản Bùi Huy Tín, du lịch khắp Bắc, Trung Kỳ và làm chủ bút tờ Hữu thanh tạp chí một thời gian.
Năm 1922, Tn Đà thành lập Tn Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà tu thư cục) nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Đây là nơi xuất bản một loạt tác phẩm quan trọng của ông. Về văn xuôi có mấy tập: Tn Đà tùng văn (tuyển c thơ và văn xuôi, trong đó có truyện và thơ Th non nước) (1922); Truyện thế gian I và II (1922), Trần ai tri kỷ (1924); Quốc sử huấn nông (1924) và tập Thơ Tản Đà (1925) , không những thế, Tản Đà thư điếm còn là nơi ông xuất bản sách dịch của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 1926, Tn Đà 38 tuổi, An Nam tạp chí, tờ báo mà ông dành nhiều tâm huyết nhất ra số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng, An Nam tạp chí có số phận long đong không kém số phận của người chủ xướng: xuất bản và đình bản tới sáu lần. Xen kẽ giữa thời gian làm An Nam tạp chí, Tản Đà đi du lịch khắp ba kỳ: khi n đ thơ núi Non Nước - Ninh Bình, khi vào Trung kỳ thăm Phan Bội Châu, đi Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Những chuyến đi của Tản Đà lúc để giải sầu, lúc để chạy nợ, tìm “Mạnh Thường Quân” tài trợ cho tờ báo. Năm 1931 - 1932 Tản Đà luận chiến với Phan Khôi về luân lý truyền thống và Nho giáo. Ông đi vào lịch sử với việc kết án Phan Khôi mấy tội “vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong hóa” và đòi đem ông này ra phạt roi trước Văn Miếu. Trong thời gian này, ông tiếp tục viết văn. Mấy tập Nhàn tưởng (bút ký triết học), Giấc mộng lớn (tự truyện) (1929); Khối tình con III (in thơ cũ); Thề non nước (truyện); Giấc mộng con II (truyện) lần lượt ra đời. Đến 1933 An Nam tạp chí chính thức đình bản.
Sau khi An Nam tạp chí đình bản, cuộc đời Tản Đà bắt trở về chiều. Ông làm trợ bút cho mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Ích hữu (của Vũ Đình Long), Văn học tạp chí (của Dương Tự Quán)... Năm 1934, Tản Đà tranh luận về thơ cũ - thơ mới với các nhà thơ trẻ. Lưu Trọng Lư gửi hai bức thư lên Khê Thượng cho Tản Đà bảo vệ thơ mới. Ông ngày càng trở nên cô đc với thời cuộc. Nhiều tâm sức được ông dành cho việc dịch thơ Đường cho từ Ngày nay của anh em họ Nguyn Tường và dịch Liêu Trai chí dị cho nhà Tân Dân (của Vũ Đình Long) (được in thành sách vào năm 1937), công việc này chủ yếu để kiếm sống độ nhật, nuôi gia đình. Nhiều cuốn sách ông viết trong giai đoạn này phải đến sau khi ông mất mi được xuất bản (như cuốn Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện in năm 1940), hoặc thất lạc bản thảo (như cuốn Thời hiên thì tập, Khổng Tử lược trưyện).
Ngày 7/6/1939, Tn Đà mất, n nần chng chất, cô độc trong nghèo nàn để lại một “đoàn thê tử yếu và đuối” tại một căn nhà đường Cu Mới - Ngã Tư sở, Nội./.