Khiemnguyen

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Tản văn : Chuột gặm xe hơi - 80 năm đọc lại mà suy ngẫm

CHUỘT GẶM XE HƠI

Cái đời làm sao mà sinh ra nhiều chuyện mị quá. Chuột hết chỗ gặm mà gặm đến xe hơi, thiệt là chướng quá, không có ai dè.

Bên Pháp, thấy nói mùa đông nầy lạnh hơn mọi năm nhiều. Tại Paris mà hàn thử biển xuống tới 45 độ dưới zéro thì cũng đã dễ ghê. Mỗi ngày hai giờ chiều về tối, thì thường có tuyết xuống, cho nên lại càng khó chịu lắm. Phía đông và phía đông nam nước Pháp còn lạnh hơn Paris nữa. Nhiều con sông đều đông đặc; lại nhiều nơi tuyết xuống cả đêm ngày.

Có một tờ báo Tây nói rằng vì sự lạnh quá đó mà có câu chuyện chuột gặm xe hơi. Tại một thành phố, chuột đông cả bầy nọ bầy kia, ở ngoài đồng chịu không nổi lạnh, nó bèn rúc vào trong nhà người ta trong thành phố mà tạm trú. Bởi thấy chúng nó khổ vì lạnh mà kiếm chỗ lánh mình, nghĩ cũng tội nghiệp, cho nên người ta cũng không đập đuổi làm chi.

Không ngờ vì cớ dung dưỡng đó mà dân chuột sanh tâm làm lộng. Trong một hãng chế tạo xe hơi ở thành phố ấy, mấy hôm vẫn cho một bầy chuột chừng vài ngàn con tá túc; một đêm kia, không ngờ chúng nó lại nhè xe hơi của người ta mà phá hết trọi hết trơn. Theo lời báo nói thì chúng gặm những lớp sơn ở ngoài thùng xe, và những bánh bằng cao su cũng bị chúng nó cắn rã mê hết; mấy chục cái xe chỉ trong một đêm mà hư hết; nếu cứ để vậy không còn có thể bán cho ai.

Người ta lấy làm lạ quá chừng. Dầu cho đến các ông bác sĩ, các nhà khoa học cũng không hiểu làm sao! Chuột cắn gì thì cắn, chớ sao lại nhè xe hơi mà cắn? Nếu nói là chúng nó đói, thì ăn những sơn và cao su ấy mà no được hay sao? Hay là để đỡ lạnh? Nếu trong sơn và trong cao su có chất nóng, đủ ngự hàn được, thì lũ chuột nầy gặm nó cũng phải. Song nếu vậy thì cái tri thức về khoa học của loài chuột chẳng là đã rộng rãi hơn loài người?

Người ta ngờ như vậy, song tôi thì tôi lại nghĩ khác. Tôi cho sự đó là một cái điềm. Điềm gì? Tôi cho là cái điềm xe hơi ế, bán không chạy.

Xe hơi của nước Pháp chế tạo ra, trừ sự đủ dùng trong nước mình rồi, còn bán ra nhiều nơi, chớ không phải một mình Đông Pháp mà thôi. Tuy vậy, Đông Pháp mấy năm nay mua xe hơi của Lang Sa nhiều lắm, có lẽ là bạn hàng quen thuộc nhứt. Nói Đông Pháp chớ kỳ thiệt là Nam kỳ. Xứ nầy nhờ có lúa nhiều mà mua xe hơi khá lắm. Thì hai năm nay giá lúa Nam kỳ sụt rẻ mọt; chẳng những sụt mà lại ế, không có ai thèm mua nữa. Trước khi lúa ế đó, có cái nạn chuột xảy ra. Nghĩa là chuột cắn lúa Nam kỳ hai năm nay, mà còn cắn đến bây giờ, thì lúa cũng còn ế tới bây giờ.

Thế thì biết rằng cái giống "ông tý" ấy nó rớ nhằm cái gì là hại cái nấy. Nó ở đây cắn lúa, làm cho lúa ế; thì nó ở bên kia cắn xe hơi, cũng có lẽ làm cho xe hơi ế.

Mà chắc lắm đa! Lúa đã ế, bán không đặng, thì hú chuột! tiền đâu có mà mua xe hơi?

THÔNG REO

Trung lập, Sài Gòn, s. 6642 (19. 1. 1932)

 

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Tản văn : Thương mèo ăn nhạt!

Đã ai kêu rằng bạn là người nhạt chưa? Chắc là không phải không? Vì trên giang hồ, kẻ dám chê bạn nhạt, hẳn đó là người sâu sắc, ít nhất cũng phải sâu sắc hơn kẻ bị chê. Mà thực tế, cái gọi là sâu sắc ở đời bây giờ hiếm lắm. Vì hình như người trong thế gian nông nổi quá nhiều, ở đâu cũng gặp nên ta đã không thấy, không cảm và vô tình không biết đâu là cái nông nổi, đâu là cái sâu sắc ở nơi em, điều đó cũng khó khaen như làm sao để cảm nhận được đâu là cái hữu hạn và đâu là cái vô cùng của cuộc đời này vậy.
Chiều đọc cuốn tình ảo, thấy có câu: ai cũng tưởng trăng quê mình sáng nhất! Tự nhiên mới nghĩ, đúng như vậy, cái gì thuộc về mình cũng tưởng là nhất, ngay cả với những cái xa xôi như chị Hằng nga, huyễn hoặc như ánh trăng cũng vơ vào lòng để mà nghĩ rằng trăng quê mình là sáng hơn quê người khác. Nhạt hay mặn biết lấy gì mà đo, xa xôi hay huyền ảo, nhạt nhẽo hay đậm đà thiết nghĩ cũng do tình cảm mà nên vậy thôi.
Cô thủ thư thấy mình mượn cuốn tình ảo mà hỏi rằng anh đã xong việc rồi à mà chuyển sang đọc truyện? Sao em hỏi vậy, em biết tôi chỉ đọc những cuốn không gọi là truyện sao? Vâng, đó là sự lạ nên em để ý, bây giò có mấy người đọc sách đâu, có chăng thì là giải trí thôi, nên em biết anh... Đó là sự lạ trong cách nhìn của một người tưởng như xa lạ nhưng thật ấm áp, ta đúng là kẻ nhạt nhẽo, bao tháng ngày qua đây mà đâu biết có em luôn nhìn nhận mình để ý minh... chợt nghe trong lòng về sự so sánh nhạt nhẽo của ai kia, bất chợt thấy lòng mình mặn chát, cái chát mặn của sự phôi pha về tình cảm.
Đúng là mình nhạt nhẽo quá. 
Cái nhạt vượt ra khỏi bản thân mà mang tính thời cuộc, xung quanh mọi người sống nhạt nhẽo với nhau. Hôm qua đại hội công đoàn cơ quan, đứa em mới về được mời phát biểu nó nói rằng hoạt động công đoàn tốt nhưng mà hình thức quá người ta chỉ đợi ốm đau hiếu hỉ mới đến với nhau còn ngày thường thì ngoài công việc ra sống với nhau như người dưng nước lã... Em phát biểu mấy câu bằng cả đại hội nói cả buổi, rằng sống với nhau như người dưng nước lã là còn nhẹ lắm, cơ mà có ai đâu nói thẳng một câu là sống với nhau nhạt như nước ốc, nhạt hơn cả nước ốc... Ôi sự nhạt nhẽo đến trong lòng ta từ chính sự tự kỷ, sự huyễn hoặc trong lòng mỗi người, hay cao hơn là sưh nhạt nhẽo của thời cả thiên hạ vác trên mình cây thánh giá có khắc dòng chữ cá nhân chủ nghĩa. Ai đó nói một trong những nguy cơ của thời đại là sự thờ ơ, đúng như vậy, vun vén cho cá nhân, chăm chăm lo cho cá nhân thì hẳn là không thể lo nghĩ đến ngừoi khác, thờ ơ là điều đúng rồi...
Tự nhiên thấy lòng mình nhạt như nước ốc, biết vậy mới thấy thương mèo ăn nhạt bấy lâu./.
Nguyenbuikhiem@gmail.com

Một số vấn đề về Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội

*

*     *


Nguyễn Bùi Khiêm


Về phương diện lý thuyết, truyền thông đại chúng là một trong những khái niệm cơ bản, chiếm vị trí trung tâm, nền tảng trong hệ thống lý luận báo chí – truyền thông nói chúng.
Theo PGS TS Nguyễn Văn Dững, truyền thông đại chúng, nhìn từ phương tiện chuyền tải thông điệp , là hệ thống các kênh truyền thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội để thông tin và chia sẻ tư tưởng, tình cảm và kính nghiệm… nhằm lôi kéo, thuyết phục, tập hợp và tổ chức đông đảo dân cư tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra.[1]. Đối tượng tác động của truyền thông đại chúng là đông đảo công chúng. Đó là tính chất công khai.Tính chất này tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, kể cả sự bùng nổ xã hội. Công khai là nói cho nhiều người cùng biết, cùng hiểu để thống nhất nhận thức, tiến tới thống nhất hành vi. Những sự kiện và vấn đề được xã hội hóa thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng liên quan đến nhiều người, có mối quan hệ xã hội rộng lớn, được nhân dân quan tâm, mong đợi và có khả năng xâm nhập, lan tỏa nhanh trong cộng đồng. Do đó, có thể nói sự kiện hay thông điệp xã hội hóa thông quan các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm ưu tiên thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu và lợi ích của đông đảo công chúng và vì sự phát triển chung.
Theo PGS. TS Mai Quỳnh Nam, truyền thông là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thông tin. Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng liên kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu. Các khâu này chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự thay đổi nhận thức và hành vi của các cá nhân và các nhóm. Theo Mr Nam, truyền thông là một quá trình liên tục, phức tạp và nhiều khâu, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Ý này hình như có vẻ mới mẻ đúng không ạ.
Theo Mr Dững, truyền thông đại chúng bao gồm báo chí và các kênh truyền thông khác như sách, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn, pano, ap phich…; còn Mr Nam, các kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội hiện đại. Truyền thông đại chúng được hiểu như là toàn bộ những kỹ thuật lan truyền thông tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách, áp phích…
 Vai trò và chức năng của truyền thông đại chúng trong đời sống xã hội đã được chứng minh từ lâu. Từ phương diện xã hội học, cơ chế tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong việc hình thànhthể hiện dư luận xã hội.
Dư luận xã hội – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của công chúng nói chung về các hiện tượng, sự kiện xã hội, đại diện cho lợi ích của các nhóm xã hội mà những lợi ích này có tính cấp thiết trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. Dư luận xã hội là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, các phương tiện truyền thông mới có thể làm tốt chức năng “tổ chức tập thể, cổ động tập thể” theo quan điểm của Mr Lenin, từ đó góp phần tạo nên động lực tinh thần, tạo nên sức mạnh cho các hành động xã hội.
Với truyền thông đại chúng, thông tin từ hệ thống này được truyền đến số đông công chúng một cách nhanh chóng (có khi đồng thời với sự kiện, hiện tượng), đều đặn và gián tiếp. Hệ thống truyền thông đại chúng vừa phải hướng tới các đối tượng công chúng nói chung và các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động hệ thống truyền thông đại chúng luôn chịu sự tác động từ hai phía: Phía thứ nhất: là các thiết chế xã hội mà phương tiện đó là công cụ (như các tờ báo của các tổ chức chính trị, xã hội); thứ hai, là công chúng của báo chí.
Sự tác động của các nhóm công chúng đến các phương tiện truyền thông đại chúng hết sức khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, quyền lợi giai cấp, về các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại chúng. Một người nông dân không thể có cơ hội đọc báo nhiều như một công chức. Một người dân miền núi sẽ khó có điều kiện bắt được nhiều kênh truyền hình như một người ở các thành phố trung tâm. Một học sinh ở nông thôn sẽ khó có cơ hội tiếp cận internet tốt hơn một sinh viên ở thành phố. Nhu cầu nắm bắt thông tin của các nhóm công chúng, các nhóm xã hội khác nhau là rất khác nhau. Và tất nhiên, sự khác biệt ấy xuất phát từ mối quan tâm khác nhau giũa họ – những nhóm công chúng khác nhau. Mối quan hệ giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện dư luận xã hội mang tính chất biện chứng. Một mặt, các phương tiện truyền thông đại chúng thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của công chúng; mặt khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống này. Sự trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị xã hội của bản thân hệ thống báo chí và của công chúng báo chí.  Không có thực tiễn phong phú, đa dạng không có đòi hỏi bức thiết của đời sống thì truyền thông đại chúng khó có sự đổi mới, tìm tòi để tăng cường chất và lượng thông tin. Ngược lại, từ sự nỗ lực của các phương tiện truyền thông đại chúng, cường độ dư luận xã hội, sự định hướng dư luận xã hội được tăng cường và tạo ra những hiệu quả xã hội nhất định.
Giao tiếp là một hoạt động cơ bản của con người để thực hiện nhu cầu liên hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được hình thành từ đó. Mối liên hệ này càng được củng cố thì dư luận xã hội càng trở nên chín chắn. Dư luận xã hội được hình thành dưới sự tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con đường giao tiếp, bằng hoạt động thảo luận trao đổi về nội dung các thông tin mà công chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội.

Cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội thông qua tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng phụ thuộc vào đặc thù của mỗi phương tiện truyền thông. Bên cạnh yếu tố loại hình báo chí, phạm vi tác động (vật lý) còn có các yếu tố về dân số – xã hội và địa lý được lấy làm cơ sở cho hoạt động xuất bản và phát hành báo chí. Các phương tiện truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về tất cả các vấn đề trong đời sống xã hội vì những mục đích nhất định. Hình thành dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng được hình thành song song, có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Để thực hiện được vai trò đó, hệ thống truyền thông đại chúng cần phải:
 - Tăng cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
- Thông tin tới công chúng về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính chất cấp thiết.
- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
- Làm hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát
- Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
 - Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính tích cực chính trị của quần chúng.
Việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình thành dư luận xã hội cũng là để thể hiện dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội nhằm tăng cường cường độ, phạm vi, định hướng dư luận xã hội. Báo chí nói riêng, các phương tiện truyền thông đại chúng thời gian qua đã có nhiều cách thể hiện dư luận xã hội hết sức sáng tạo. Nhưng nhìn chung, các hình thức thể hiện dư luận xã hội chủ yếu như sau:
 1. Phản ánh trực tiếp: Bằng cách cho đăng phát các ý kiến của người đọc, người nghe, xem hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công chúng trên truyền thông.
2. Đăng tải các bài phát biểu của đại diện các tầng lớp nhân dân hoặc các tổ chức đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, kèm theo lời bình luận cơ quan báo chí.
3. Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào đó, các nhà báo viết bài rồi cho phát hành.
Việc thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung và thể hiện dư luận xã hội trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói riêng đều dựa trên yêu cầu: Thông tin đưa ra công luận phải dẫn đến sự tranh luận của quần chúng, nghĩa là các thông tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự đánh giá của dư luận xã hội đều có các tính chất sau:
- Nó phản ánh được lợi ích của xã hội.
- Nó có tính cấp bách
- Nó tạo nên sự tranh luận
Quá trình hình thành dư luận xã hội có sự đòi hỏi cao ở tính thống nhất rất phức tạp của các đối tượng công chúng. Các yếu tố quan niệm chung về định hướng giá trị, bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị xã hội, trình độ học vấn của công chúng là các nhân tố quan trọng để tập hợp các cá nhân vào dòng chảy của các phương tiện truyền thông đại chúng, và qua hệ thống này thể hiện ý kiến của cá nhân họ và của nhóm xã hội mà bản thân họ là một thành viên. Sự trùng khớp càng cao giữa ý kiến của nhóm với ý kiến chung của xã hội là nhân tố quan trọng để tạo nên mối liên kết xã hội nhằm đảm bảo tính chất bền vững của dư luận xã hội.
Các giai đọan của sự hình thành dư luận xã hội dưới tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng diễn ra quan các bước sau.
- Công chúng làm quen với các vấn đề được các phương tiện truyền thông gợi ý hoặc đề xuất.
- Kích thích lợi ích xã hội về vấn đề đó. Hoạt động này thường được làm bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực đó. Việc trình bày các quan điểm khác nhau trong cách nhìn nhận, đánh giá sẽ tạo nên cơ sở cho việc tranh luận.
- Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng
Sự hình thành dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự phát. Nhưng đây là một quá trình có quy luật. Mặc dù sự phát triển của dư luận xã hội được xác định bởi các quy luật khách quan, song để dư luận xã hội được hình thành có định hướng thì phải có hoạt động điều khiển. Trong một xã hội phát triển có định hướng thì quá trình hình thành dư luận xã hội theo con đường tự phát tất yếu phải chịu tác động bởi sự điều hành có ý thức của hoạt động quản lý và tổ chức xã hội.
Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phưong tiện thông tin đại chúng có phản hồi (feedback). Nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên dư luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng có tác động trở lại đến hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng. Vì trong lĩnh vực thông tin đại chúng sự phân chia giữa những người tham gia truyền thông (nguồn tin – chủ thể tác động) và người nhận (khách thể tác động) là rất tương đối vì cả hai phía của tác động này đều là chủ thể và khách thể của tác động thông tin một các một chiều.
Tài liệu tham khảo:
1.      Báo chí truyền thông hiện đại; Báo chí và dư luận xã hội của Mr Nguyễn Văn Dững.
2.      Xã hội học về truyền thông đại chúng của Mr Trần Hữu Quang
3.      Nghiên cứu của Mr Phan Văn Tú.
4.      Bài học trong chương trình Master.
Mọi vấn đề ai quan tâm, xin vui lòng trao đổi qua: nguyenbuikhiem@gmail.com



[1] Báo chí truyền thông hiện đại, Tr. 5

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Tản văn về nỗi cô đơn

Cá chép về nỗi cô đơn.

Khi cô đơn, người ta thường dễ hoài niệm. Hoài niệm về những điều đã có, đã qua. Hoài niệm về những phút giây mà họ đã không thể và không đủ can đảm để giữ chặt nó trong đời, vì một hay nhiều lý do nào đó mà họ đành phải để cuốn trôi. Những thăng trầm cuộc sống và bộn bề công việc chẳng mấy khi cho họ có thời gian để soi lại tấm gương của quá khứ, nhưng khi cô đơn, dù muốn hay không, vùng kí ức ấy vẫn hiện về, nhưng không bằng niềm vui mà thay vào đó là một nỗi buồn sâu thăm thẳm.

Biết bao người đã chất đống nỗi cô đơn của họ lên thành một lâu đài giá băng không có những điều thân thương ở đó, họ ngột ngạt giữa biển người mênh mông không vòng tay sâu rộng. Tôi cũng từng có những nỗi cô đơn trong đời như thế. 

Hẳn cái triết lý sống rằng cuộc sống của mình là do mình sắp đặt, mình vui hay buồn, cô đơn hay không cô đơn đều do mình tạo nên. Điều đó chẳng sai, nhưng ở đời vẫn luôn có những điều nằm ngoài sự sắp đặt và mong muốn của chúng ta. Đâu phải khi ta muốn vui là có thể vui được đâu, đâu phải khi ta muốn tránh xa nỗi cô đơn là ta có thể tránh xa được đâu. Tôi từng đọc một bài báo nói về nỗi cô đơn của đàn ông, và tôi ước gì tôi giống họ. Đối với phụ nữ, nỗi cô đơn là sự  ảnh trong tâm hồn, nhưng với đàn ông, sự cô đơn chỉ là một cơn gió vô tình. Phụ nữ khi cô đơn cũng tìm đến đám đông, nhưng không phải ai cũng vượt qua được nỗi cô đơn đó đó nhờ đám đông. Đàn ông thì khác, họ luôn tự tin rằng họ thừa sức mạnh để chiến thắng sự cô đơn và không để nó ảnh hưởng đến cuộc sống. Đàn ông không dùng nước mắt để chống lại nỗi cô đơn như phụ nữ mà khi cô đơn, người đàn ông luôn nung nấu một quyết tâm "phục thù" để lấy lại sự thanh thản.

Khi còn nhỏ, tôi không bao giờ biết đến nỗi cô đơn, kể cả khi lúc đó tôi một mình. Nhưng sau này, khi đã bước vào đời, khi đã đi qua ngưỡng cửa của một tình yêu, lớn lên cùng với những thiệt thòi - được mất, tôi mới thấy nỗi cô đơn sao rộng và dài quá. Nhìn vào đôi mắt, đôi môi tôi ngoài đời thực, có người đã hỏi tôi rằng một người sống hồn nhiên và chẳng bao giờ đánh mất nụ cười trên môi như tôi, hẳn tôi chẳng có khái niệm về nỗi cô đơn. Nhưng ẩn sâu đằng sau ánh mắt biết nói và đôi môi biết cười ấy là cả một khung trời mà không mấy ai có thể nhìn thấy được. Đã có biết bao nhiêu bữa tiệc, bao nhiêu buổi liên hoan, sau những trận cười vang, tôi lặng lẽ bước ra ngoài, nhìn lên bầu trời sâu thăm thẳm và hít thở cái không khí thật sâu, để tự nói với mình lúc đó rằng: "Thôi nào, hãy quẳng những ý nghĩ viển vông đi để mà sống, mà yêu đời thêm đi nữa". Và đó là lúc tôi ghét cái tâm hồn nhạy cảm của tôi nhất, ghét những suy nghĩ phức tạp của tôi nhất. Tôi chưa bao giờ sợ sự cô đơn khi một mình, ngay cả khi tôi cần một ai đó ở bên, nắm lấy bàn tay tôi. Mà tôi chỉ sợ khi tôi ngồi bên người tôi yêu thương mà tôi vẫn phải rùng mình vì một nỗi cô đơn.

Tôi biết nước mắt là điều phụ nữ tìm đến nhiều nhất khi họ đối diện với nỗi cô đơn, vì chỉ có qua màn nước mắt, người ta mới thấy nỗi cô đơn đó đớn đau đến thế nào. Nhưng còn tôi thì khác, tôi đã học cách mỉm cười khi đối diện với nỗi cô đơn. Không phải bởi vì tôi sợ những giọt nước mắt sẽ càng làm tôi yếu đuối hơn, mà tôi chỉ sợ rằng nước mắt tôi sẽ chẳng thể nào rơi được nữa trong những khoảnh khắc kiệt cùng như thế mà thôi. Bởi thế nên bây giờ, trong những phút cô đơn, tôi lại lặng lẽ... cười. Lúc đó tôi vẫn thấy tôi được là mình nhiều nhất, dẫu khóc hay cười thì cũng thế mà thôi.

Tôi mong cho bạn, cho tôi và cho tất cả loài người trên thế giới này có thể đi qua được nỗi cô đơn sâu thẳm phía tâm hồn một cách nhẹ nhàng và bình thản nhất. Khi đi qua cô đơn rồi, bạn sẽ mỉm cười vì đã sống những ngày trọn vẹn và tiếp tục chắp nối chặng yêu./.

Chepkhongbietcuaai@yahoo.com

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

Khoa học công nghệ và truyền thông:

                           MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MẠNG XÃ HỘI


Nguyễn Bùi Khiêm


Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, đến cuối năm 2011, Việt Nam có 130 mạng xã hội đã được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ. Trong đó, có một số mạng xã hội đã thu hút hàng triệu người sử dụng như ZingMe với 5,1 triệu người; Facebook 2,9 triệu người; Yume gần 2,9 triệu người… Mạng xã hội ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng theo hai hướng chuyên biệt hóa và cung cấp cùng một lúc nhiều dịch vụ.
Khái niệm
Những đổi mới trong công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến với một kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó hầu như tất cả mọi người đều được tiếp cận tin tức và thông tin, và trở thành những người sáng tạo và đóng góp cho ngành công nghiệp báo chí. Nhờ đó, ngày nay, tin tức được truyền đi theo những cách thức phi truyền thống với những hệ quả không thể đoán trước được. Một trong những cách thức phi truyền thống đó là mạng xã hội.
Mạng xã hội (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian.
Mạng xã hội là hệ quả của sự phát triển của công nghệ thông tin trên nền tảng Internet, truyền thông hội tụ và cá nhân hóa các thiết bị công nghệ thông tin, nhất là các thiết bị đầu cuối. Ước tính, có khoảng 800 triệu điện thoại di động được bán ra mỗi năm trên khắp thế giới và càng ngày, chiếc điện thoại di động càng hiện đại, nó được tích hợp đầy đủ các chức năng nghe, nhìn, truyền tải dữ liệu cả hai chiều. Những công cụ này tạo ra một “thế hệ thông tin toàn cầu” có khả năng chưa từng có để tạo lập, sản xuất, chia sẻ và tham gia vào những gì đang diễn ra của cuộc sống. Mạng lưới toàn cầu cho phép con người đưa tin tức, suy nghĩ, ý tưởng và hình ảnh đi bất cứ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào.
Mạng xã hội có những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh doanh, mua bán...
Mục tiêu của mạng xã hội
· Tạo ra một hệ thống trên nền Internet cho phép người dùng giao lưu và chia sẻ thông tin một cách có hiệu quả, vượt ra ngoài những giới hạn về địa lýthời gian.
· Xây dựng lên một mẫu định danh trực tuyến nhằm phục vụ những yêu cầu công cộng chung và những giá trị của cộng đồng.
· Nâng cao vai trò của mỗi công dân trong việc tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong những cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội.

Một số mạng xã hội đầu tiên và nổi tiếng trên thế giới:
Mạng xã hội xuất hiện lần đầu tiên năm 1995 với sự ra đời của trang Classmate với mục đích kết nối bạn học, tiếp theo là sự xuất hiện của SixDegrees vào năm 1997 với mục đích giao lưu.
Năm 2004, MySpace ra đời với các tính năng như phim ảnh (embedded video) và nhanh chóng thu hút hàng chục ngàn thành viên mới mỗi ngày, các thành viên cũ của Friendster cũng lũ lượt chuyển qua MySpace và trong vòng một năm, MySpace trở thành mạng xã hội đầu tiên có nhiều lượt xem hơn cả Google và được tập đoàn News Corporation mua lại với giá 580 triệu USD.
Năm 2006, sự ra đời của Facebook đánh dấu bước ngoặt mới cho hệ thống mạng xã hội trực tuyến với nền tảng lập trình "Facebook Platform" cho phép thành viên tạo ra những công cụ (apps) mới cho cá nhân mình cũng như các thành viên khác dùng. Facebook Platform nhanh chóng gặt hái được thành công vược bậc, mang lại hàng trăm tính năng mới cho Facebook và đóng góp không nhỏ cho con số trung bình 19 phút mà các thành viên bỏ ra trên trang này mỗi ngày.


Mối quan hệ mạng xã hội và truyền thông
Biểu hiện quan trọng nhất của We Media là sự tham gia. Tất cả mọi người đều là một phần của câu chuyện. Tất cả mọi người đều có ảnh hưởng. Hành động của một người dân hoặc một nhóm công dân, đóng vai trò trong quá trình thu thập, đưa tin, phân tích và truyền bá tin tức và thông tin sẽ là sự cạnh tranh đối với các tổ chức truyền thông và những nhà báo làm việc cho các tổ chức này. Tuy nhiên, mục đích có thể lại là giống nhau: cung cấp thông tin độc lập, đáng tin cậy, chính xác, trên nhiều lĩnh vực và các lĩnh vực có liên quan mà một nền dân chủ đòi hỏi.
Qua mạng Web các ranh giới giữa các hình thức truyền thông khác nhau, giữa truyền thông chính thức và không chính thức đã trở nên không rõ ràng. Nhưng qua đó các ranh giới giữa truyền thông định lượng và truyền thông đại trà cũng không rõ ràng, có nghĩa là không có ranh giới giữa truyền thông cho riêng từng người và cho tất cả mọi người. Đồng thời trong cả báo in đã xuất hiện những nguồn nghiệp dư, bên cạnh bài viết của giới nhà báo chuyên nghiệp: người vào mạng quan tâm đến những bài viết của „phóng viên độc giả“, những bức ảnh chụp ở khắp nơi bằng máy ảnh kỹ thuật số hoặc điện thoại di dộng. Như vậy trên nhiều phương diện thì nền báo chí đương đại mang tính chất quy tụ và tương tác. Tuy các sản phẩm báo chí, phát thanh truyền hình truyền thống vẫn đóng vai trò trung tâm trong các nội dung truyền thông với diện mạo mới, nhưng giới trẻ lại cho rằng mạng xã hội, mạng “cộng đồng“ tin cậy hơn và hấp dẫn hơn. Internet phát triển thành một cộng đồng cho phép mọi người có thể tương tác với nhau trên mạng, các tập đoàn truyền thông lớn đang cố gắng kết nối với các trang mạng xã hội để giúp người sử dụng có thể chia sẻ, trao đổi, bình luận một cách dễ dàng hơn với bạn bè.
Hãng tin CNN đã kết nối chuyên mục chính trị “The Forum” với Facebook, trang mạng xã hội lớn thứ hai tại Mỹ, cho phép mọi người trao đổi ý kiến về các cuộc tranh luận tổng thống và giúp họ xem được các bình luận của bạn bè.
Mặc dù tuyệt đại đa số người tham gia nói trên thiếu kỹ năng hoặc không được đào tạo về nghề báo, song chính Internet lại hoạt động như là một cơ chế biên tập. Điểm khác biệt là việc biên tập được thực hiện từ nhiều phía, và thường là sau khi sự việc đã diễn ra chứ không phải là trước đó. Trong hệ thống thông tin này, người dân dựa vào nhau để đưa tin, truyền tải và hiệu chỉnh một câu chuyện khi nó tiếp diễn. Một câu chuyện không còn bị cố định bởi thời hạn hoặc lịch đưa tin, mà nó có cấu trúc và phát triển theo hình xoắn ốc qua nhiều hình thức truyền thông. Nó không còn thuộc về bất kỳ ai nữa ngoại trừ chính khán giả của nó.
Tính linh hoạt của cách tiếp cận này nhấn mạnh vào việc phát hành thông tin hơn là vào việc lọc thông tin. Những cuộc đàm thoại trong cộng đồng diễn ra để tất cả cùng chứng kiến. Ngược lại, những tổ chức truyền thông truyền thống được thành lập là để lọc thông tin trước khi phát hành chúng. Nhà biên tập và phóng viên cộng tác với nhau, song cuộc thảo luận giữa họ không được công khai cho công chúng biết hoặc tham gia.
Điểm khác biệt rõ thấy nhất giữa nền báo chí có sự tham gia của mọi người với nền báo chí truyền thống là cấu trúc và tổ chức tạo ra chúng. Hoạt động truyền thông truyền thống được tạo lập bởi những tổ chức có phân cấp, được thiết lập vì mục đích thương mại. Cách thức kinh doanh của nó tập trung vào lợi nhuận thu được từ quảng cáo. Nó coi trọng cách thức tổ chức công việc chặt chẽ, khả năng sinh lợi và sự vẹn toàn. Những cộng đồng được liên kết qua mạng coi trọng đối thoại, sự cộng tác và chủ nghĩa bình quân về khả năng sinh lời, tạo lập ra nền báo chí có sự tham gia của mọi người. Nền báo chí này không cần đến một nhà báo được đào tạo theo lối cổ điển làm người dàn xếp. Nhiều trang tin, diễn đàn và cộng đồng trực tuyến hoạt động hiệu quả mà không cần đến một người như vậy.
Hiện tại, các cá nhân có được khả năng chưa từng có, đó là cách thức và thời điểm họ tiếp cận thông tin và quyết định việc chia sẻ thông tin với ai. Trong xã hội được kết nối của những người di cư toàn cầu, nguồn vốn xã hội của chúng ta có thể được mở rộng thông qua những mạng lưới cá nhân rộng lớn trải khắp toàn cầu.
Mạng xã hội là một lực lượng phát triển mạnh mẽ, nó gợi ra rằng, tiếng nói - thực, là một biểu hiện văn hóa của cá nhân - lại đang hồi sinh trong hoạt động của các phương tiện truyền thông của chúng ta.
Hệ lụy tiêu cực
Mạng xã hội có tính hai mặt tích cực và tiêu cực. Mạng xã hội có vai trò quan trọng đối với báo chí trong việc cung cấp thông tin, đề tài, quảng bá và xây dựng giá trị thương hiệu cho cơ quan báo chí và nhà báo. Mạng xã hội cũng là kênh tương tác của báo chí với độc giả góp phần làm thay đổi quy trình làm báo truyền thống trước đây… Song, mạng xã hội không phải là phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, việc tiếp nhận, kiểm chứng và “chính thống hoá” thông tin trên mạng xã hội, đòi hỏi các quan báo chí, nhà báo phải thận trọng, cân nhắc khi chọn lọc.
Điều dễ nhận ra là mạng xã hội và truyền thông nói chung đã đem lại nhiều điều bổ ích cho con người, đặc biệt là về thông tin, giải trí, sự liên kết, tương tác giữa các thành viên và các loại hình truyền thông. Dựa trên tiện ích đa dạng mang lại cho người sử dụng, mạng xã hội được ví như ngôi nhà chung của nhiều người mà ở đó, người ta có thể chia sẻ cảm nhận, cảm xúc cá nhân, bất kể khoảng cách về địa lí hay sự chênh lệch tuổi tác. Những diễn đàn được lập ra trên mạng, tập hợp nhóm người cùng sở thích, chung mối quan tâm, có khi dẫn đến hành động tập thể một cách hiệu quả.
Tại Việt Nam, sau những biến cố xã hội như xảy ra lũ lớn, bão to, qua các phương tiện truyền thông hay các diễn đàn trên mạng lan truyền thông tin, hình ảnh về hậu quả thiên tai, nạn nhân, những người không may phải gánh chịu hậu quả và cả lời kêu gọi cộng đồng chung tay góp sức sẻ chia... Trong những trường hợp ấy, dư luận từ số đông hình thành, góp phần tô đẹp thêm truyền thống "bầu ơi thương lấy bí cùng" giữa người với người trong xã hội hiện đại.
Thế nhưng, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội cũng đã và đang đem lại hệ lụy không mong đợi, một cách hữu ý hoặc vô tình thông qua người sử dụng nó. Một thông tin đăng tải trên báo chí gần đây đã đưa ra số liệu đáng lưu ý, rằng "hơn 50% số người trưởng thành sử dụng các dịch vụ mạng xã hội đã từng đăng tải thông tin cá nhân nhạy cảm và rất nhiều người chưa biết sử dụng chức năng bảo vệ quyền riêng tư". Ở nước ta, đặc biệt là gần đây, trên nhiều trang mạng lớn tràn ngập hình ảnh phản cảm, những chuyện cướp, giết, hiếp được đưa lên với dụng ý lôi kéo số đông.
 Tác động phản cảm có thể gây hiệu ứng tệ hại, mà sự xuất hiện của nhóm trẻ tuổi tự nhận mình thuộc "hội những người hâm mộ sát thủ Lê Văn Luyện" là một ví dụ có tính điển hình. Sự xuất hiện những quan điểm cá nhân tự đánh bóng theo chiều hướng phi chính trị, phi nhân bản, phi lợi ích cộng đồng, thậm chí bệnh hoạn trên mạng xã hội đang có chiều hướng gia tăng, thực sự là mối nguy hại cho xã hội.
Truyền thông có thể đóng vai trò dẫn dắt số đông dù người sử dụng chúng có ý thức được điều đó hay không. Với sự cẩu thả trong việc lựa chọn nội dung thông tin, hình ảnh và dựa trên tốc độ lan truyền khủng khiếp, khả năng tương tác cao thông qua mạng xã hội, những thông điệp không phù hợp với lợi ích xã hội có khả năng gây ảnh hưởng xấu tới rất nhiều người, không loại trừ sự hình thành trào lưu.
Truyền thông, báo chí chính thống không ít lần trở thành cầu nối lan truyền thói hư, hình ảnh xấu. Có nhiều nguyên nhân, trong đó đôi lúc sự thể bắt đầu từ phương pháp tác nghiệp và năng lực phóng viên. Có những người không đi đến nơi cần đến, viết theo tưởng tượng với ý đồ riêng, hoặc cố tình cắt xén để nhằm làm sai lạc sự thật như nó vốn có. Điều đó cho thấy một điều, bên cạnh những giải pháp về quản lý nói chung còn cần giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ làm nghề báo, ngoài sự nhạy bén còn đòi hỏi ý thức và cách xử sự nhân văn.

Vấn đề quản lý mạng xã hội

Tại cuộc hội thảo về tác động giữa thông tin của báo chí truyền thống và thông tin trên các mạng xã hội (hội thảo tại Huế ngày 28-10/2011) Bà Annelie Ewers, Viện trưởng Viện Đào tạo báo chí FOJO, Thụy Điển, chia sẻ ngay đầu cuộc hội thảo: “Mạng xã hội đang là chủ đề nóng trên thế giới, đang từng ngày thách thức đối với cách truyền thông truyền thống. Vai trò nhà báo cũng đang thay đổi và chúng ta đã đến ngã tư đường: Ai sẽ nắm quyền tác động và vai trò nhà báo trong tương lai sẽ như thế nào?”. Ông Lưu Vũ Hải, Cục trưởng Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông), cho biết công cụ tìm kiếm và mạng xã hội là hai dịch vụ được hàng chục triệu người dùng Internet sử dụng rộng rãi nhất. Trong đó, 100% sử dụng tìm kiếm, 80% sử dụng mạng xã hội. Trong số những người sử dụng dưới 18 tuổi thì 43% có một tài khoản, 25% có hai tài khoản và 13% có bốn tài khoản trở lên. Ông Hải cũng xác nhận thông tin trên các mạng xã hội này là một nguồn đầu vào cực kỳ phong phú cho báo chí, tham gia quảng bá cho các thông tin báo chí lan tỏa, tiếp cận bạn đọc. Trong nhiều vụ việc cụ thể, mạng xã hội còn tác động, tương tác với báo chí, làm thay đổi quy trình làm báo truyền thống, giúp báo chí có sự điều chỉnh cần thiết trong quá trình tiếp nhận ý kiến. Tuy nhiên, ông Hải cũng lưu ý về sự thiếu chính thống, thiếu kiểm chứng của các thông tin trên mạng xã hội. “Nhiều thông tin không có động cơ, mục đích rõ ràng, có một số thông tin có động cơ xấu. Nếu thông tin đầu vào thiếu chọn lọc, thiếu kiểm chứng thì trên báo chí có thể xuất hiện thông tin sai sự thật và điều này sẽ khiến cho tờ báo trở nên tầm thường, lá cải”. Ông Lê Hồng Minh, chủ trang mạng Zingme, nói rằng sử dụng mạng xã hội là xu thế không thể cưỡng lại của những người trẻ. Điều này tạo ra những thách thức thực sự với báo chí truyền thống. Đại diện báo Pháp Luật TP.HCM nhìn vấn đề ở góc độ “phủ sóng” thông tin. Bạn đọc luôn có nhu cầu được biết, nếu báo chí chính thống né tránh thì sẽ mất người đọc và người dân sẽ tìm đến các mạng xã hội. Theo bà Annielie Ewers, nhà báo phải đi đầu sử dụng mạng xã hội chứ không phải cản trở sự phát triển của nó. Đó là cách báo chí cùng tồn tại, kiểm chứng, cũng là bảo vệ sự thật và bảo đảm cân bằng cho người thụ hưởng thông tin. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn nhấn mạnh: Vấn đề là kiểm chứng thông tin chứ không phải e ngại thông tin từ mạng xã hội. Các tòa soạn báo, các nhà báo phải tự xây dựng cho mình phương thức xác định sự thật từ những thông tin trên mạng. Phía cơ quan quản lý cũng phải nghiên cứu thấu đáo, tạo môi trường lành mạnh để mặt tích cực của mạng xã hội phát triển. Ông Lưu Vũ Hải – Cục trưởng Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử cho rằng: Nếu nhà báo, cơ quan báo chí lựa chọn thông tin, chủ đề thiếu chọn lọc, thiếu cân nhắc sẽ dẫn đến thông tin “lá cải”, “a dua” chạy theo mạng xã hội. Nếu không kiểm chứng thông tin trên mạng xã hội sẽ dẫn đến thông tin sai sự thật, có thể gây tác động xấu đến dư luận xã hội. Ông Lưu Vũ Hải lấy dẫn chứng: “Tình trạng các cơ quan báo chí, nhà báo mắc phải sai sót trong việc kiểm chứng và xử lí nguồn tin gây ảnh hưởng đến uy tín cá nhân, tổ chức khác, đang có xu hướng phổ biến ở nhiều báo điện tử trong thời gian gần đây”.
Ngược lại, báo chí cũng có vai trò quan trọng với mạng xã hội. Báo chí đã góp phần “định hướng” thông tin, tiếp nhận, kiểm chứng và “chính thống hóa” thông tin trên mạng xã hội. Nếu nhà báo, cơ quan báo chí có đủ bản lĩnh, nhạy cảm về chính trị, trình độ nhận thức về văn hóa, xã hội; tuân thủ đúng, chặt chẽ quy trình biên tập, sẽ tận dụng được những ưu điểm của mạng xã hội./.