Khiemnguyen

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Cười tí cho đỡ mềnh màng nào các cụ!



Chuyện tình của tôi tan vỡ từ lâu rồi, tưởng không bao giờ còn nhớ.
Nhưng bỗng một hôm, trên đường ra phố thị tôi gặp người yêu ngày nào
Đoi mắt ưu tư thật buồn nàng nhìn tôi, 
rồi quay mặt bước đi như không hề quen biết, 
Cũng đôi mắt này năm xưa lạc vào hồn tôi trong những đêm không ngủ trông đèn nhìn khói thuốc bay.
Em, dĩ vãng đôi mình được dệt thành bao kỹ niệm từ khi mới quen nhau.
Ôi, đôi mắt người xưa bao lần khóc ướt vai tôi trong những đêm nghẹn ngào. 

http://sv01.otofun.net/2014/06/06/1402047030-TONGIA.gif

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Phong cách báo chí Hồ Chí Minh và phong cách báo chí Ngô Tất Tố



1. Đôi nét về diện mạo báo chí và tình hình sử dụng tiểu phm trên báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Bước vào thế kỷ XX, Việt Nam có khoảng 10 tờ báo cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp và chữ Hán. Trong những năm đầu thế kỷ như đã nói báo chí do người Pháp làm chủ bởi luật pháp thời thuộc địa bấy giờ không cho người bản xứ làm báo. Tuy nhiên như quy luật phát triển, dần dà cũng có những tờ báo “lách luật” để có những cú lội ngược dòng trong sự “bóp cổ” báo chí bản địa của chính quyền thực dân. Đến đầu những năm 20 của thế kỷ XX, đã dần định hình một nền Báo chí Việt Nam. Bên cạnh những tờ báo thời sự chính trị xã hội, đã có báo chí văn hóa văn nghệ, báo chí kinh tế, báo chuyên ngành, chuyên giới.
Chiếm dòng chủ lưu trong báo chí thời gian này là những cơ quan chuyên lo việc tuyên truyền, tô điểm cho chế độ thực dân, kêu gọi nhân dân hợp tác với nhà cầm quyền. Những tiếng nói phản kháng tuy đã có cất lên song vẫn còn rất yếu ớt và luôn luôn bị bóp nghẹt. Tuy nhiên những tiếng nói này lại biểu thị một ý thức dân tộc đang tự khẳng định qua những khuynh hướng yêu nước thương nòi, đòi quyền dân chủ, lên án chế độ cai trị hà khắc và bất công xã hội... Đó là tín hiệu báo trước sự xuất hiện tất yếu của một nền báo chí cách mạng.
Nói cách khác, lịch sử đòi hỏi và đã hội đủ những tiền đề cho sự ra đời một tờ báo cách mạng. Nhưng tờ báo ấy chỉ có thể thực hiện và lưu hành bí mật. Đó chính là điều Nguyễn Ái Quốc đã rút ra khi Người sáng lập báo Thanh Niên, số 1 ra ngày 21/6/1925 và từ nước ngoài đưa về lưu hành bí mật trong nước.
Trở về nước để chỉ đạo cách mạng sau bao nhiêu năm bôn ba ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sáng lập tờ Việt Nam Độc lập với mục đích Kêu gọi nhân dân trẻ với già - Đoàn kết vững bền như khối sắt - Để cùng nhau cứu nước Nam ta.
Với sự ra đời của báo Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh (số 1 ra ngày 25/1/1942); của tờ Cờ Giải Phóng, cơ quan tuyên truyền cổ động của Đảng (ngày 10/10/1942), của Tạp chí Cộng sản chuyên về lý luận cùng với nhiều tờ báo khác ở các địa phương hoặc của các đoàn thể, báo chí càng mạnh mẽ dấn thân vào tiến trình cách mạng.
2. Phong cách tiểu phẩm Hồ Chí Minh
a). Về sự nghiệp báo chí cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp báo chí Hồ Chí Minh có thể nói gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của Người. Hoạt động báo chí không tách rời hoạt động cách mạng và hu hết các tác phẩm báo chí, hoạt động báo chí của chủ tịch Hồ Chí Minh không ngoài mục đích phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Chính Người đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam.
a). Sự độc đáo trong phong cách tiểu phẩm Hồ Chí Minh
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhận mình là một cây bút tiểu phẩm. Trong kho tàng báo chí đồ sộ của Người, thể loại tiểu phẩm chiếm số lượng nhiều hơn cả. Chỉ riêng trên báo Nhân dân từ năm 1950 đến năm 1969 đã có 1200 tác phẩm báo chí thuộc thể loại tiểu phẩm. Trong các tiểu phẩm của mình, Người chủ yếu tập trung vào chủ đề vạch rõ tội ác của bọn thực dân. Qua ngòi bút linh động của Người, bộ mặt chủ nghĩa thực dân đế quốc và chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã hiện lên với tất cả tội ác, sự dã man đối với xứ thuộc địa nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Trên bình diện nội dung của các tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, chúng ta có thể chia ra làm hai giai đoạn khác nhau là giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 và giai đoạn sau cách mạng.
Một điều đáng chú ý trong giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp. Sự thâm nhập của ngôn ngữ và văn hóa Pháp đã tạo nên tính hài, tính châm biếm trí tuệ như một nét đặc thù của tính cách Pháp. Cũng vậy mà các tiểu phẩm của Người trong giai đoạn này rất đáng được nghiên cứu.
Sau Cách mạng tháng 8, Người vẫn tiếp tục quan tâm tới công tác báo chí, cả viết báo lẫn quản lý báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đều đặn viết cho các báo Sự thật, Nhân dân, Cứu quốc... Nội dung tiểu phẩm trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào giáo dục đạo đức cán bộ, phê phán những thói hư tật xấu vẫn còn tồn tại ở một bộ phận cán bộ. Cạnh đó tiểu phẩm Hồ Chí Minh tiếp tục vạch trần âm mưu, tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. Sau Cách mạng tháng 8, tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh có thể nói tập trung vào hai mảng chính là tiểu phẩm tuyên truyền giáo dục và tiểu phẩm chính trị.
b). Độc đáo ở việc vân dung sáng tạo các thủ pháp của nghệ thuât sáng tác văn hoc vào tiểu phẩm.
Bước ra khỏi những khuôn mẫu để có những sự phá cách, “xé rào” là những điều làm nên sự sáng tạo trong viết tiểu phẩm. Sự sáng tạo ấy lại đuợc chắp cánh khi tìm ra một hình thức thể hiện hiệu quả nhất dù nó là văn học hay báo chí chính luận.
Nguyễn Ái Quốc trong tiểu phẩm đã vận dụng một cách sáng tạo các thủ pháp và phương tiện nghệ thuật của sáng tác văn học. Điều này bộc lộ rõ ở hai khía cạnh chính, đó là mạch nguồn và của văn học dân gian và sự “xâm lấn thể loại” theo cách gọi của PGS.TS Phạm Thành Hưng. Chúng ta dễ dàng tìm thấy tính chất điển tích, điển cố - một tập quán của văn học Việt Nam trong sáng tạo tiểu phẩm của Người. Vậy nên tiếng cười của tiểu phẩm học và văn hóa dân gian.
c). Độc đáo trong sử dụng ngôn từ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là một nhà văn hóa và là một con người có tri thức uyên thâm, cả về Hán học và tri thức Tây học. Vậy nhưng trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong các tác phẩm tiểu phẩm thì ngôn ngữ không được dung như một sự “khoe mẽ” kiến thức, mà nó đã được chuyển hóa thành “Ngôn ngữ bình dân” một cách giản dị, dễ hiểu với vốn từ Việt nôm na được dung một cách đúng hoàn cảnh. Sử dụng ngôn ngữ bình dân là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy trong phong cách tiểu phẩm Hồ Chí Minh. Nếu làm một phép thống kê thông thường thì trong hầu hết các tiểu phẩm của Bác, tần suất xuất hiện lớp ngôn ngữ “nôm na, dân giã” này rất cao, kể cả trong những tiểu phẩm chính trị.
Cạnh đó ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ khẩu ngữ không chỉ được sử dụng ở tần suất cao mà sử dụng một cách hết sức sáng tạo với những kết nối ngôn từ linh động, thông minh và vô cùng bất ngờ. Sự xuất hiện các động từ như “láo” kết hợp với các tính từ để nâng mức độ, cấp độ bản chất lên nhiều lần như “láo toét”, “láo xược”... để vạch trần những âm mưu của kẻ thù.
Việc phiên âm tiếng nước ngoài, đặc biệt là phiên âm tên người, nhất là tên giới cầm quyền một cách cố ý theo dụng ý châm biếm cũng là một đặc điểm sáng tạo trong ngôn ngữ tiểu phẩm của Hồ Chí Minh. Chẳng hạn tổng thống Mỹ Ai- xen- hao được Bác rút gọn lại là “Tổng Ai”, rất ít khi Bác gọi đầy đủ là Tổng thống, mà chỉ gọi là “tổng” với cái tên phiên âm có dụng ý mai mỉa phía sau như một bổ ngữ. Chẳng hạn “Mấy lời thành thật ngỏ cùng tổng Ai”. Ai ở đây chính là Ai-xen- hao nhưng bởi tính đa nghĩa của từ tiếng Việt sau khi phiên âm, “Ai” cũng có thể hiểu “xiên xẹo” là “bi ai” buồn phiền, khổ não, và “Ai” cũng là một đại từ nghi vẫn hỏi người. Nixơn phó tổng thống Mỹ thì bị lược lại thành “Nix” trong tiểu phẩm “Gửi Mr. Nixơn, phó tổng thống Mỹ”. Dòng mở đầu là một câu văn “dở tây dở ta” rất gây ấn tượng: “Alo. Mr Nix! You đến Sài Gòn với mục đích gì?”…
Nghệ thuật chơi chữ cũng là một nét tài hoa trong phong cách tiểu phẩm Hồ Chí Minh. Đó là việc tạo ra sự tương phản giữa các từ đồng âm khác nghĩa, là sự kết hợp các tổ hợp từ, là việc phiên âm tiếng nước ngoài. tất cả đều xuất hiện một cách cố ý, dày đặc trong khối lượng tiểu phẩm độ sộ của Người.
d). Độc đáo trong cách rút tít cho tiểu phâm.
Với một trình độ điêu luyện Người đã rất chú ý đến nghệ thuật đặt tít cho các tác phẩm tiểu phẩm của mình. Đa phần những tít báo của Bác ở thể loại tiểu phẩm đều rất ngắn gọn súc tích chứa đựng một lượng thông tin tối đa mà vẫn hấp dẫn bạn đọc bởi sự bất ngờ, duyên dáng của nó. Nhiều nhà nghiên cứu thống kê trung bình tít mỗi bài tiểu phẩm của Bác chỉ bao gồm bốn từ, có tít chỉ vọn vẹn một từ, cá biệt trường hợp bẩy đến tám từ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi giật tít thường tìm những phương tiện từ vựng, ngữ pháp thích hợp nhất nhằm tiết kiệm lời và tăng lượng thông tin cho bài.
Đó là tạo sự cân xứng, đối lập trong mệnh đề. Chẳng hạn có tít bài Người viết: “Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn” (Nhân dân số 194 từ ngày 13 đến 15/6/1954); “Mỹ thú Mỹ thua” (Nhân dân ngày 1/2/1956). Đôi khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng cả nối nói tắt trong hội thoại: “Mỹ thua to, Xô thắng lợi”, “Tổng Ken dại dột”. Một sự sáng tạo khác trong cách giật tít của Bác là sự chơi chữ tương phản trong cùng một tít báo. Hình thích đặt hai tự điệp âm, láy âm gần nhau cũng là một trong những ví dụ đáng quan tâm. Chẳng hạn như: “Xa lăng xa lù” (Nhân dân 20/3/1952)- “xa lù” là phiên âm tiếng Pháp có hàm nghĩa mắng chửi. “Đế quốc Mỹ bi và bí” (Nhân dân 29/12/1957).
3. Tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố.
a). Sơ lược tiểu sử tác giả Ngô Tất Tố.
Ngô Tất Tố, sinh năm 1894 tại quê gốc: làng Lộc Hà, Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là xã Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội). Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước cách mạng, Ngô Tất Tố làm nhiều nghề: dạy học, bốc thuốc, làm báo, viết văn; từng công tác với nhiều tờ báo: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phổ thông, Đông Phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Hà Nội Tân văn, Thực nghiệp, Tương lai, Thời vụ, Con ong, Việt Nữ, Tiểu thuyết thứ ba...
Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia ủy ban Giải phóng xã (Lộc Hà). Năm 1946: Gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc và lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Ngô Tất Tố mất ngày 20/4/1954 (tức 18/3 năm Giáp Ngọ) tại Yên Thế, Bắc Giang.
Ngô Tất Tố có một khối lượng các tác phẩm khá đồ sộ bao gồm các tác phẩm đã xuất bản, nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949-1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam: Giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt I, 1996).
b). Ngô Tất Tố nghề văn và nghiệp báo.
Đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố là ông viết nhiều thể loại, trong đó tiểu phẩm báo chí và phóng sự là hai thể loại nổi tiếng nhất của ông. Ông phụ trách nhiều chuyên mục của nhiều tờ báo hằng ngày và hằng tuần. Chuyên mục nào ông cũng nêu rõ chủ trương về nội dung và hình thức để các cộng tác viên theo đó mà tham gia viết bài cho chuyên mục.
Là một nhà văn, một người có vốn Hán học uyên thâm và cũng biết chữ Pháp cũng như uyên thâm về văn hóa nên tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố cũng rất giàu tính văn học và sử dụng các thủ pháp văn học một cách nhuẫn nhuyễn để tạo tính hấp dẫn và sức thuyết phục cho các tác phẩm tiểu phẩm.
c). Nội dung tiểu phm báo chí Ngô Tất Tố
Dù ở giai đoạn nào thì tiểu phẩm Ngô Tất Tố cũng là một bức trang tổng thể, rộng lớn phản ánh chân thực cảnh sống khốn cùng của những người nông dân ở các vùng nông thôn, vạch rõ những tai ương, những bất công ngang trái của chế độ thực dân phong kiến ở nước ta những năm trước cách mạng tháng 8.
Ngô Tất Tố ngay từ đầu những năm 30 đã đứng vững trên lập trường chủ nghĩa hiện thực phê phán để phản ánh thực trạng cuộc sống nên tiểu phẩm của ông giàu tính hiện thực, luôn gắn bó với quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy bên cạnh việc lên án một cách mạnh mẽ, kết tội bè lũ thực dân cướp nước cùng bọn vua quan phong kiến bán nước, Ngô Tất Tố còn dành nhiều tâm huyết trong các tiểu phẩm phản ánh về nối thống khổ của các tầng lớp nông dân lao động ở thôn quê đang bị bao vây bởi những hủ tục lạc hậu cùng với các thủ đoạn bóc lột tàn ác của giai cấp thống trị. Từ đó ông lên tiếng mạnh mẽ và tìm cách bênh vực quyền lợi cho họ.
d). Những đặc trưng và sự sáng tạo trong tiểu phm Ngô Tất Tố.
+ Sử dụng có hiệu quả bút pháp trào phúng, châm biếm.
Với Ngô Tất Tố là giọng điệu trào phúng thâm thúy sâu cay vừa có tính triết lý vừa là những suy nghĩ về thói đời ngang trái và chỉ ra hàng chục, hàng trăm thứ dởm đời khôi hài ở bọn cầm quyền, lừa đảo, trọng phú.
Ngòi bút châm biếm của Ngô Tất Tố còn có nhiều giọng điệu khác nhau. Lúc thì tấn công trực diện, lúc thì vận dụng cách nói gián tiếp mỉa mai sây cay những mặt trái, bất công trong đời sống xã hội.
+ Sự độc đáo về việc sử dụng giai thoại, điển tích trong tiểu phâm
Một trong những yếu tố tiếp nhận ảnh hưởng từ văn học vào các tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là tính chất giai thoại, điển tích trong các tiểu phẩm. Ngô Tất Tố thường sử dụng điển tích từ kho tàng tri thức Hán học để vận dụng một cách linh động vào các trường hợp hoàn cảnh khác nhau để qua đó làm sáng tỏ các sự kiện và tăng tính hấp dẫn, thuyết phục cho sự kiện.
+ Nghệ thuật sử dung ngôn từ trong tiểu phẩm Ngô Tất Tố
Đầu tiên phải kể đến sự khéo léo, tài tình trong nghệ thuật đặt tít. Hàng loạt những tít cho tiểu phẩm như “Đã dại thì thôi định hùn ai”, “Vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa quay cổ lại”, “Mạ lại tin tức”, “Ai bảo quan sĩ xứ mình không gan”, “Đại hiền nói dối”, “Có mà kiện lên thiên đình”, “Đen đỏ đỏ đen”, “Ngắn hai dài một”, “Hitle và con gà mái Biên Hà”, “Còn chờ gì nữa mà chưa giải tán Hội dân biểu, trò nhố nhăng” .
Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đã kết hợp được nét sắc nhọn mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí với chất thâm thí, nhuần nhị, hàm súc của ngôn ngữ văn chương. Ngôn ngữ tiểu phẩm Ngô Tất Tố không chỉ biểu đạt những ý tưởng một cách thông thường mà còn tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung trong tiểu phẩm.
Ngôn ngữ tiểu phẩm Ngô Tất Tố là một sự kết hợp đầy ngẫu hứng của một con người đầy trải nghiệm vốn kiến thức phong phú của Hán học, văn học dân gian và cả ngôn ngữ hiện đại. Vậy nên sự diễn đạt trong các tiểu phẩm gần như không có sự lặp lại của một cấu trúc văn bản và ngôn từ có tính khuôn mẫu. Chỉ có điều trong cách giật tít, mặc dầu hấp dẫn những các âm tiết hơi nhiều. Tít tiểu phẩm của Ngô Tất Tố chủ yếu từ 4 tâm tiết trở lên, có tiểu phẩm dài đến 12 âm tiết như : “Nếu vậy thì Ích hữu ái quốc thư xã lâu rồi” in trên báo Đông phương năm 1931.
Trong việc sử dụng từ ngữ, ngoài sự điềm đạm của một người có kiến thức và văn hóa, đôi lúc ta còn thấy Ngô Tất Tố còn sử dụng “ngoa ngôn” theo đúng nghĩa đen để bày tỏ những cung bậc tình cảm qúa sức chịu đựng trước những thói đời giả dối. Lúc này sự “điềm đạm” tạm nhường chỗ cho những ngôn từ hơi “cay độc” , “ngoa ngoắt” nhưng rất “đáng đồng tiền bát gạo” khi “vận” vào những tình huống phải buộc phải chửi như thế mới đau.
Ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không có tính ám chí, mà đã chửi ai, đánh ai là.đánh trực diện, đánh đích danh. Đây không đơn thuần chỉ là một cách diễn đạt, mà ngôn ngữ sử dụng đã thể hiện bản lĩnh, chất kiêu hàng của người làm báo. Và theo cách này thì ngôn ngữ đã là một phần không thể thiếu góp phần quan trọng kiến tạo nên chất tiểu phẩm, tính chiến đấu trong nội dung tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố.
Trên bình diện đặc trưng, cấu trúc và nghệ thuật viết tiểu phẩm của nhà báo Ngô Tất Tố chúng ta còn thấy sử dụng các thủ pháp đặc trưng khác như tính tự sự của văn học. Mỗi một tiểu phẩm có cấu trúc chặt chẽ, có nhân vật, có hình tuyến, có cả hoàn cảnh điển hình trong một không gian và thời gian thực và ảo. Tất cả những điều nói trên đã tạo thành một phong cách tiểu phẩm khó lẫn vào ai và tạo dựng nên một tên tuổi Ngô Tất Tố trong dòng chảy của lịch sử báo chí Việt Nam. Một tên tuổi tiểu phẩm hang đầu của thế kỷ XX không dễ gì có sự thay thế.
*
Tiểu phẩm báo chí của Nguyễn Ái Quốc và Ngô Tất Tố trong thế kỷ XX, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ có thể nói là một bộ phận chuẩn mực về thể loại của nền báo chí Việt Nam. Đây là những quả bom tấn trên mặt trận văn hóa tư tưởng tấn công trực diện và có hiệu quả vào chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai bán nước. Cùng với đó là tiếng nói đấu tranh cho những bất công ngang trái trong xã hội để bảo vệ và đứng về những người dân lương thiện bị áp bức bót lột. Không chỉ chuẩn mực trên bình diện nội dung mà hình thức tác phẩm và nghệ thuật viết tiểu phẩm của Nguyễn Ái Quốc và Ngô Tất Tố cũng đạt đến độ chuẩn mực bằng tất cả sự độc đáo từ kết cấu, nghệ thuật đặt tít, dùng từ đến việc vận dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp văn học khác trong sáng tạo tiểu phẩm báo chí.

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Bằng lăng tím

Hoa Bằng lăng
Hoa Bằng lăng đã nở hết mình
Mà chưa nói hết những điều muốn nói

Màu hoa tím đã qua thì nông nổi
Chưa bằng lòng nên hoa cứ bằng lăng...
Tôi biết hoa phượng vỹ

 Nở cùng hoa bằng lăng
Nhưng Bằng lăng rụng trước
Màu tím thường khó khăn!

 Photobucket 
Photobucket  Photobucket Photobucket Photobucket  
(Ảnh nhặt trên mạng)

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Hồ Chủ tịch viết về tình hình báo chí ở An Nam đầu thế kỷ XX



BÁO CHÍ[1]
…Những điều tôi sẽ kể về báo chí An Nam nó kỳ dị quá đến nỗi khó mà tin được. Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. Lý do như thế này. Chính quyền Pháp quyết định rằng không một tờ báo bằng tiếng An Nam nào được xuất bản nếu không được viên toàn quyền cho phép, rằng họ chỉ cho phép với điều kiện là bản thảo đưa đăng phải trình viên toàn quyền duyệt trước đã, và giấy phép ấy họ thu hồi lúc nào cũng được. Tinh thần bản sắc lệnh về báo chí là như thế đấy (Chúng tôi bị cai trị bằng chế độ sắc lệnh do viên toàn quyền ban bố chứ không phải bằng những đạo luật đã được thảo luận và biểu quyết ở nghị viện). Trên thực tế còn tệ hơn nữa. Mãi đến bây giờ, chưa có người An Nam nào được phép xuất bản một tờ báo cả.
"Người ngồi đó với cây chì đỏ/vạch đường đi từng bước từng giờ" (Tố Hữu)
Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ do chính quyền thành lập và giao cho bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hoá và ru ngủ dân chúng. Báo đầu độc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có ba hay bốn tờ đấy.
Ngay cho đến cả những tờ thông tin thuần tuý về kinh tế và thương mại, người ký giả bản xứ cũng chỉ xin được phép bằng những biện pháp quanh co. Anh ta phải thuê tiền một người Pháp có địa vị và được kính nể. Ông này đi gặp quan cai trị và xin phép cho ông ta, là người Pháp. Vì ông ta vẫn sẽ là sáng lập viên của tờ báo, mặc dầu ông chẳng biết một tiếng An Nam nào gọi là có, ông chẳng phải bỏ tiền túi ra lấy một xu nhỏ, chẳng phải đụng tí gì đến công việc của tờ báo cả trừ việc đi gặp viên quan cai trị. Chỉ việc cho mượn tên mình, người Pháp kia nhận được hằng tháng một số tiền rất hậu mà người ký giả bản xứ phải trả cho ông lâu dài, báo còn ra là còn phải trả.
Trước khi đưa đi nhà in, tất cả các bài báo phải dịch ra tiếng Pháp và đưa kiểm duyệt đã. Cấm ngặt những tờ thông tin ấy không được đả động gì đến những vấn đề chính trị hay tôn giáo, mà chỉ được đăng những tin tức thông thường, những vấn đề xét ra có lợi cho Nhà nước. Khi đất nước bị một thiên tai nào, lụt lội, bão táp, đói kém, v.v., phòng kiểm duyệt cấm báo không được cho dân chúng biết những tin “không vui” ấy, cấm báo không được mở lạc quyên giúp những người bị nạn. Báo không có quyền nói gì, dù chỉ bóng gió, đến việc bầu cử hội đồng thuộc địa hay hội đồng hàng tỉnh. Có một tờ, dịch ra tiếng An Nam đạo luật cấm những hành vi hối lộ trong việc tuyển cử, đã bị kiểm duyệt trắng mất nửa tờ báo mà còn bị khiển trách thêm nữa. Nhiều khi người ta cấm cả dịch đăng những bài đã đăng ở các báo tiếng Pháp xuất bản ở Đông Dương.
Các bạn chớ tưởng rằng mấy tờ báo thông tin khốn khổ ấy được tự do phân tích tất cả những cái thuộc về kinh tế. Chẳng hạn, họ không được nói đến đời sống đắt đỏ, đến việc mất mùa, đến việc buôn gian bán lậu của bọn con buôn người Âu, đến việc xoay xở tiền nong bất lương của bọn quan cai trị, đến những vụ đầu cơ đê tiện của bọn chủ đồn điền và chủ nhà máy người da trắng. Vừa rồi, người ta cấm báo chí không được đả động đến việc Chính phủ nhượng quyền kinh doanh hải cảng Sài Gòn, nếu không phải để tán dương công đức của công ty độc quyền và lòng vô tư của Chính phủ. Có một tờ cũng đã “tán dương”, nhưng kém nhiệt tình, nên phòng kiểm duyệt trước hết đã theo dõi bí mật, rồi đóng cửa hẳn tờ báo ấy.
Những người vào làng Tây, được hưởng quyền công dân Pháp, có thể xuất bản báo, nhưng chỉ bằng tiếng Pháp mà thôi - ở Nam Kỳ có 5, 6 tờ báo vào loại ấy. Ở các vùng khác, không có tờ báo nào, vì không có hay có ít người vào làng Tây. Trong số các cơ quan ngôn luận ấy - thường là bán nguyệt san - có hai hay ba tờ có khuynh hướng quốc gia hợp pháp. Ghép hai tính từ trái ngược nhau ấy với nhau, có thể kỳ dị đấy và cần giải thích đôi chút. Những tờ báo này là của bọn tư sản bản xứ mới lên, có địa vị là nhờ ở nền đô hộ Pháp. Nền đô hộ ấy đã sinh ra bọn này, nhưng lại không để cho họ phát triển. Vì vậy, tầng lớp tư sản nhỏ bé đó bị ngạt thở trong phạm vi chật hẹp và phụ thuộc mà quan thầy ngoại quốc - cha đỡ đầu của họ - đã dành cho họ. Và vì thế, họ hờn mát nhưng cũng nhè nhẹ thôi. Bởi thân phận nửa dơi nửa chuột của họ, chẳng thuộc hoàn toàn trong xã hội An Nam vì họ là những người vào làng Tây, mà cũng chẳng thuộc trong tầng lớp “quý tộc” Tây vì họ xuất thân ra là người An Nam - nên họ cảm thấy lúng túng trong mọi việc. Đồng thời trong mọi hành động và tư tưởng của họ, đều thấy cái mâu thuẫn xã hội và tâm lý ấy. Báo của họ chỉ trích những vụ hà lạm, nhưng lại phỉnh nịnh những kẻ hà lạm; họ than phiền về những đạo luật đè nén áp bức, nhưng vẫn cậy thế vào nước mẹ; họ mủi lòng cho số phận khốn khổ của người An Nam, nhưng vẫn ca tụng công đức mơ hồ của một nền khai hoá tốt đẹp hơn. Họ muốn chữa bệnh, nhưng lại không dám tìm và tấn công vào nguồn gốc của bệnh.
Ảnh hưởng của họ bị cản trở mọi đường:
a) Vì chính sách ngu dân như các bạn đã biết, nên độc giả chỉ có một dúm người rất hạn chế. Mỗi số phát hành không bao giờ quá một hay hai nghìn bản, ấy thế mà bán không hết.
b) Vì thái độ lừng chừng, vì không có chương trình cụ thể, không có kế hoạch rõ ràng, không có khuynh hướng mạnh dạn, nên mấy tờ báo ấy không thu hút được cảm tình của dân chúng. Họ ngả nghiêng, hay đúng hơn, lơ lửng giữa dân chúng mà họ không gần gũi được và những kẻ thống trị không ưa họ.
c) Nhà nước thuộc địa cố tâm phá phách họ. Họ bị phá bằng nhiều cách. Sau đây là những cách thông thường nhất:
1. Nhà nước báo cho công chức và nhân viên người bản xứ biết rằng cấp trên đã coi những tờ báo ấy như làm cách mạng, rằng những người nào đọc những báo đó sẽ bị ghi danh sách riêng, và dĩ nhiên là bản danh sách ấy sẽ đính theo báo cáo thăng hay giáng chức.
Có nhiều công chức đã bị bắt buộc phải đổi đi chỗ khác hay bị bắt về hưu chỉ vì đã vi phạm những điều răn đe ấy.
2. Đối với những độc giả không phải là công chức (tôi nói không phải là công chức chứ không nói tự do, vì ở đất nước chúng tôi không ai được tự do cả, trừ bọn xỏ lá ba que ra) thì viên quan cai trị cho gọi họ đến bàn giấy, ân cần khuyên bảo họ điều hơn lẽ thiệt.
Nếu họ không biết nghe những lời khuyên tử tế ấy, thì họ bị cảnh sát theo dõi. Và cứ mười lần thì có đến chín, báo chí và thư từ của họ bị thất lạc như bị phép thần. Chính phủ hãy tạm vui lòng như thế trong lúc chờ đợi cơ hội để tóm cổ họ vì lẽ này hay lẽ khác.
3. Chính phủ cho bọn chủ nhà in lựa chọn nên làm việc cho một tờ báo "tin vịt không biết điều" được ít tiền, hay nên nhận in cho Nhà nước được lợi lộc và bảo đảm hơn nhiều.
Vì thế, một tờ báo ở Sài Gòn đã buộc phải đổi chủ in nhiều lần trong một tháng.
4. Chính phủ vi phạm quyền tự do thư tín, ngay cả thư riêng của các ký giả. Những người này bị “ghi” vào sổ đen, bị theo dõi, dò la, do thám và vu cáo. Chính phủ dùng cả áp lực đối với gia đình, bà con thân thuộc và bè bạn họ nữa. Chỉ nhờ địa vị có làng Tây và nhờ mánh khoé khôn khéo kết thúc mọi bình luận bằng cách nịnh hót tâng bốc hết mức nước mẹ bảo hộ, nhân từ, thiêng liêng, v.v. mà họ thoát khỏi đi tù.
Báo chí bản xứ bằng tiếng Pháp bị phá phách như vậy đấy. Những hành vi bất hợp pháp của lối trị an đê hèn ấy còn được tăng cường và bổ sung thêm bằng những điều lệ pháp lý như thế này: “Mọi việc trưng bày hay gửi đi nơi khác những bài hát, bức hoạ hay tranh ảnh trái đạo tôn kính đối với các vị đại diện của Nhà nước, sẽ bị trừng phạt bao nhiêu tháng tù và phạt tiền bao nhiêu phrăng đó, v.v.”.
Chưa hết đâu. Nền văn minh của thực dân đã dùng ngọn đuốc cổ truyền thủ tiêu đến chút tự do cuối cùng của người bản xứ. Đã làm cho người bản xứ phải đần độn và câm, chúng vẫn chưa vừa lòng; chúng còn muốn họ phải điếc nữa kia. Chúng bịt tai họ không cho họ nghe tiếng vang của những biến cố bên ngoài. Chỉ đơn giản bằng một nét bút, chúng đình chỉ hẳn đời sống tinh thần của cả một dân tộc. Cũng sắc lệnh vừa kể trên định rằng: “Sự lưu hành báo và tạp chí bất cứ bằng tiếng gì, có thể bị cấm do một nghị định của quan toàn quyền”. Các bạn có tin chắc rằng quan toàn quyền nhân từ chẳng sơ suất gì mà không dùng và lạm dụng quyền hành ấy. Báo chí bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pari, gửi sang đều bị tịch thu ở Đông Dương. Sở bưu chính, sở mật thám và các cơ quan hành chính cùng nhau làm nhiệm vụ đê hèn ấy. Và người ta doạ trừng phạt những người có tên nhận những tờ báo ấy. Người ta cấm ngặt không cho đọc báo Nhật và Trung Quốc. Giữ một tờ tạp chí, một quyển sách Trung Quốc nào đó có thể là một trọng tội đối với người An Nam. Tôi biết nhiều nhà văn thân bị kết án khổ sai chung thân vì đã đọc tạp chí Trung Quốc hồn, Ẩm băng và những bài cùng loại ấy của các nhà duy tân Trung Quốc. Năm 1920, có nhiều người An Nam ở Bắc Kỳ bị kết án từ hai đến năm năm tù, chỉ vì một người đã làm thơ ca tụng tự do và các người khác đã nghe ngâm bài thơ ấy./.


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 403 – 407.

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Sự phát triển của các tổ chức truyền thông đa phương tiện

TTO - Các công ty truyền thông như viễn thông, truyền hình cáp và các khối giải trí đang tranh giành nhau để có chân trong “thị trường” tích hợp các phương tiện truyền thông mới. Một vài ví dụ:
  • Henry Luce đã giành được sự kiểm soát hoàn toàn tạp chí Time (www.time.com). Người kế nghiệp của ông thêm vào đó những tạp chí thành công khác, bao gồm tờ Fortune và tờ Sports Illustrated. Hiện tại mảng tạp chí là một phần nhỏ của công ty khổng lồ AOL Time Warner (www.timewarner.com), chuyên về chương trình giải trí, xuất bản sách, tạp chí và chương trình truyền hình cáp đặc sắc. Nó bao gồm những đơn vị khác nhau như Cable News Network (www.cnn.com), Warner Brothers (www.timewarner.com), và đội bóng chày Atlanta Braves. Gần đây hơn, nó trở thành một bộ phận của American Online (www.aol.com) trong sự liên doanh truyền thông lớn nhất trong lịch sử. Sự liên doanh đó minh họa sinh động cho sự kết hợp các phương tiện truyền thông cũ và mới.
  • Cox Enterprises Inc. (www.coxnews.com) bắt đầu chỉ với một tờ báo vào năm 1898. Cox là một trong những công ty truyền thông lớn nhất quốc gia, và về mặt lịch sử, nó bao gồm cả những phương tiện truyền thông hiện đại: đài phát thanh, đài truyền hình và truyền hình cáp. Vào tháng 4/1996, Cox Interactive Media được thành lập để cho ra đời những tờ báo trực tuyến ở các thành phố mà có sự hiện diện của các phương tiện truyền thông của Cox. Và Access – Atlanta (www.accessatlanta.com) là trang thông tin quan trọng hàng đầu.
  • Knight Ridder (www.kri.com), một trong những công ty truyền thông được chú trọng nhất ở Mỹ, từ lâu đã nhận thấy giá trị của việc truyền tải tin điện tử. Thử nghiệm vào những năm 1940, những bản tin đầu tiên được fax, vào những năm 1970, bản tin được truyền hình và vào những năm 1990 báo được điện toán hóa và phát lên mạng. Bạn có thể tìm tất cả các báo trực tuyến của Knight – Ridder trên mạng Real Cities Network (www.realcities.com) và tờ San Jose Mercury News đi đầu trong việc phát tin qua Internet với trang web Mercury Center (www.mercurycenter.com) của nó.
  • Những công ty phát hành báo lớn khác, bao gồm New York Times Co. (www.nyt.com) và Tribune Co., nhà xuất bản của tờ Chicago Tribune (www.tribune.com), chuyển tin chủ yếu qua mạng Internet.
  • Thậm chí các công ty báo chí nhỏ cũng vào cuộc. Tờ Lawrence Journal - World (www.ljworld.com) mở một công ty truyền hình cáp và một trang web và là người sử dụng đầu tiên công nghệ “đẩy”, đưa thông tin đến cho người dùng dựa vào sự thu hút được xác định trước.
  • Các công ty truyền hình cũng không thoát khỏi sự liên kết. NBC (www.home.nbci.com) có một trong nhiều trang đầy tham vọng trên Internet, và có những dự án chung về truyền hình và Internet với hãng máy tính khổng lồ Microsoft (www.msnbc.com). Các hãng khác như CBS, ESPN, FOX va CNN đều có những trang chính trên Internet.
Việc các hãng như Microsoft nhảy vào địa hạt truyền thông làm những ai xưa nay đang kiếm sống trong ngành này phải lo lắng. Nhiều người đặt câu hỏi liệu một công ty như Microsoft, nổi tiếng đã không từ chuyện gì để cải thiện lợi nhuận, có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn cao được đặt ra bởi các nguyên tắc truyền thông cho việc quản lý các hoạt động tin tức hay không. Nhưng kể từ lúc Microsoft trình làng mạng Microsoft chứa đầy tin tức, nó đã tiếp thu rất nhiều từ các báo, các đài truyền hình, báo cáo của các công ty trong việc đảm bảo những tiêu chuẩn khắt khe cho các hoạt động truyền thông từ lâu đã được đề cao.
Những hãng như Microsoft sẽ không đặt chân vào công việc kinh doanh nếu tiềm năng về lợi nhuận không đáng kể. Rõ ràng, Microsoft, AOL Time Warner, và MTI’s Negroponte có chung một tầm nhìn về tương lai – kết hợp các phương tiện truyền thông và giải trí vào một phương thức truyền thông mới có khả năng cung cấp sự lựa chọn tin tức bằng văn bản hay bằng các đoạn phim và những bộ phim mới nhất bất kì khi nào được yêu cầu. Tầm nhìn đó là nền tảng cho sự mua bán ồ ạt tài sản của các hãng truyền thông diễn ra trong suốt những năm 1990 và những sự liên kết các phương tiện truyền thông là có thể vì sự bãi bỏ quy định xảy ra sau khi Luật Viễn Thông được thông qua năm 1996. Bức tranh các phương tiện truyền thông đang thay đổi mạnh mẽ khi các công ty tự đặt cho mình một vai trò trong thương trường truyền thông của tương lai. Và trong khi chưa ai biết chính xác dạng phương tiện truyền thông tương lai sẽ là gì, hay dạng thức đó được phát đi như thế nào, thì mọi người đã muốn chia sẻ lợi nhuận. Thị trường triển vọng trong tương lai vô cùng lớn.
Bởi vì những cấu trúc liên kết đang thay đổi, nên những tòa soạn báo cũng thay đổi. Ví dụ, ở trụ sở chính của NBC tại New York, một thế hệ nhà báo mới đã lấy những bài báo từ mạng lưới các tòa soạn và số hóa chúng để lưu vào máy tính. Những bài báo này tạo cơ sở cho NBC Desktop News, một hệ thống thông tin bằng hình ảnh theo yêu cầu được bán rộng rãi cho các công ty trên toàn quốc. Nó đã được hợp nhất thành MSNBC.
Gộp chung vào các phương tiện truyền thông mới là những tiện ích của dịch vụ thông tin công cộng qua mạng, bao gồm CompuServe, Prodigy, American Online, Microsoft Network và các công ty khác. Càng ngày chúng càng đầy quảng cáo. Thậm chí Internet – trước kia thì những hoạt động bí mật của máy vi tính chỉ có một vài người uyên bác và các chuyên gia máy tính hiểu được – đang ngày càng trở thành phương tiện chuyển tải quảng cáo thương mại nhắm đến những bộ phận công chúng riêng biệt.
Điều đó giúp chúng ta nhận ra cái mà không mấy người làm báo muốn nghe: Chính quảng cáo chứ không phải tin tức đã là động lực phát triển của thị trường truyền thông. Để hiểu những sự thay đổi trong ngành truyền thông, phải theo sau đồng tiền quảng cáo. Có nhiều xu hướng cho thấy ngày càng có nhiều tiền quảng cáo đổ vào các phương tiện truyền thông hiện đại – thư điện tử gửi trực tiếp, truyền hình cáp, các mạng thông tin, và xa dần các phương tiện truyền thông truyền thống như truyền hình và báo chí. Cho đến bây giờ, thay đổi đó còn chậm, các chuyên gia quảng cáo mong muốn nó thay đổi nhanh hơn để tiếp tục tìm kiếm cách tốt nhất nhắm vào những khán giả mà mình mong muốn. Có thể một vài năm tới đây sẽ có những thay đổi nhanh chóng trong sự tích hợp các phương tiện truyền thông.
Vì sự tích hợp các phương tiện truyền thông thay đổi, nên định nghĩa về tin tức cũng thay đổi. Như chúng ta đã đề cập ở chương 1, những định nghĩa tin tức truyền thống nay không còn phù hợp nữa. Và hơn thế, định nghĩa tin tức đang thay đổi theo cách mà nhiều nhà báo chưa hề tưởng tượng được. Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ thông tin qua mạng và thư điện tử có thể làm cho con người trên khắp thế giới gặp gỡ nhau qua mạng. Ở đó họ chia sẻ cùng nhau kiến thức, thuật lại cho nhau những chuyển biến mới nhất với hàng ngàn chủ đề. Những bộ phận được dùng nhiều nhất trong hệ thống đó là các diễn đàn và những trang tin điện tử. Những người sử dụng chọn thông tin theo những đề tài mà họ thích thú.
Điều đó đặt ra một câu hỏi là liệu chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mà vai trò lập chương trình của các phương tiện truyền thông sẽ thu hẹp lại? Theo truyền thống, các phương tiện truyền thông quyết định cái mà công chúng cần phải biết về một sự kiện nào đó. Hơn thế nữa, các phương tiện truyền thông đặt ra chương trình chung bằng cách sắp xếp sự quan trọng tương đối của các chuyên mục – theo sự trình bày và kích cỡ của chuyên mục hay trình tự trình chiếu trong chương trình truyền hình. Đảm đương nhiệm vụ như người gác cổng thông tin, các phương tiện truyền thông quyết định các sự kiện được bộc lộ đến mức độ nào. Với việc xuất hiện của phương tiện truyền thông qua mạng, tất cả những điều đó đang thay đổi. Càng ngày công chúng càng có khả năng lựa chọn từ núi thông tin khổng lồ và tự quyết định cái nào quan trọng, cái nào không. Không giống như báo, truyền hình, tạp chí, các phương tiện truyền thông qua mạng có không gian gần như vô hạn để truyền tải thông tin. Vì vậy, vai trò của những người làm nghề truyền tải tin tức như người gác cổng đang thu hẹp lại.
Những sự thay đổi đó sẽ yêu cầu một sự điều chỉnh trong vai trò của các nhà báo. Sự điều chỉnh đó tác động đến xã hội chúng ta như thế nào thì còn chưa rõ. Những người theo thuyết vị lai tin rằng các phương tiện truyền thông tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc lên chương trình nếu như chúng không ở trong vai trò người gác cổng thông tin nữa. Các nhà báo sẽ phải giúp công chúng chọn lọc qua lượng thông tin khổng lồ và nói cho họ biết cái nào là quan trọng. Một vài nhà báo phải dành thời gian làm điều đó cho chính bản thân họ.
Sẽ có rất nhiều việc làm cho các nhà báo. Rốt cuộc, vẫn phải có một ai đó thu thập tin tức và tổ chức nó thành một chương trình dễ tiếp thu, hữu dụng. Nhưng những dịch vụ truyền thông mới sẽ đòi hỏi các nhà báo trình độ kỹ năng rộng hơn. Trong khi một số nhà báo có thể tập trung vào viết, như bây giờ, thì họ sẽ phải thể hiện sự đánh giá phong phú hơn qua hình ảnh, biểu đồ, đồ thị, bản đồ – và thậm chí các thiết bị nghe nhìn – có thể bổ sung cho bài báo của họ. Đó là bởi vì các nhà báo tương lai sẽ phải am hiểu các dạng truyền thông, bằng thị giác cũng như bằng ngôn từ. Nhiều cơ quan báo chí đang ủng hộ thực tế đó vì họ cố gắng làm cho các phóng viên tư duy bằng hình ảnh nhiều hơn và các nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim tư duy bằng ngôn từ nhiều hơn. Để cung cấp những kỹ năng này, các trường báo chí truyền thông đang thay đổi chương trình giảng dạy để giúp sinh viên cảm thấy dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận những điểm cần thiết của tất cả các loại hình truyền thông. Bất kể những thay đổi đó, hầu hết các nhà báo trẻ trong một vài năm tới sẽ bước vào nghề ở những vị trí truyền thống.
Do vậy, đây quả là thách thức khi bạn lên kế hoạch cho sự nghiệp báo chí truyền thông của mình. Bạn không chỉ lập kế hoạch cho một nghề nghiệp cụ thể trong mạng lưới truyền thông hiện nay mà còn phải chuẩn bị cho một thời kỳ thay đổi bước ngoặt. Mặc dù sự thay đổi gây ra nhiều phiền toái, nhưng nó cũng đem đến những hi vọng. Đây là cơ hội để bạn tham gia vào giai đoạn chuyển tiếp của truyền thông đại chúng, một giai đoạn chắc chắn mở ra nhiều cánh cửa thành công.
THE MISSOURI GROUP biên soạn