Khiemnguyen

Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Báo chí Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám



BÁO CHÍ VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM1
Con người, từ thưở mới xuất hiện trên quả đất, do nhu cầu giao tế và những nhu cầu khác trong cuộc sống xã hội của mình, đã có hoạt động thông tin bằng ngôn ngữ, bằng cử chỉ, bằng những công cụ, những phương tiện tạo ra trong thực tiễn sản xuất và đấu tranh. Dĩ nhiên là những buổi đầu, suốt thời kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thuỷ, các công cụ tạo ra cũng như các hình thức và phương pháp sử dụng đêu còn đơn giản, thô sơ. Những cái mốc của sự đổi mới và phát triển có vẻ không có gì đáng kể đối với cảm giác con người thời đại ngày nay. Thật ra thuở ấy thường cách nhau đến hàng vạn năm, chục vạn năm.
Trải qua hàng triệu năm tiến hoá, loài người đi đến chỗ có chữ viết, rồi chữ in..., cắm một cái mốc rất lớn, rất quan trọng trên con đường phát triển của hoạt động thông tin. Từ cái mốc ấy và đến một bưóc tiến triển nhất định của đấu tranh giai cấp, trong xã hội phân hoá thành những giai cấp khác nhau, có giai cấp đối kháng và đối kháng giai cấp đã hàng nghìn năm, một công cụ thông tin có tính ưu việt nổi bật hẳn so với các công cụ đã có trước kia ra đời và nhanh chóng trở thành một sản phẩm đắt hàng: Công cụ ấy là bản tin, là tờ báo, cuối cùng là báo chí. Ngày nay báo chí không chỉ là có chữ mà còn có cả tiếng, cả hình và cả hình lẫn tiếng.
Nước ta, từ đời Văn Lang đến giữa thế kỷ trước, là chưa có báo chí. Lịch sử báo chí Việt Nam cho đến nay bắt đầu và kéo dài trong khuôn khổ lịch sử nước Việt Nam bị đê quốc xâm lược và chống đế quốíc xâm lược thắng lợi rồi chuyển tiếp sang lịch sử nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng đang phấn đấu trên những bước đi ban đầu của kỷ nguyên mới.
Hơn một trăm năm qua, lịch sử đất nước Việt Nam và lịch sử báo chí Việt Nam bao gồm những giai đoạn và những thời kỳ về cơ bản là khớp với nhau khá rõ. Bỏi vậy, về lịch sử báo chí, sự phân định các giai đoạn và các thời kỳ cũng tương đối thuận tiện. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sự phân định các chương mục của một công trình về lịch sử báo chí nói chung và lịch sử một tờ báo cụ thể nào đó nói riêng không cần chú ý thật nhiều đến những đặc trưng cơ bản và hoàn cảnh cụ thể riêng biệt của báo chí nói chung và tờ báo cụ thể ấy nói riêng.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến rất nghèo nàn và lạc hậu, tư liệu còn lại cho chúng ta đã quá ít ỏi, lại rất tản mạn, không dễ sưu tầm và xác minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, tám, chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp chủ yếu bằng chiến tranh du kích - không sao tránh khỏi làm nảy ra rất nhiều khó khăn về mặt này. Sau đó, đất nước bị chia cắt thành hai miền có hai chế độ khác nhau và trong hoàn cảnh tất cả các lực lượng cứu nước đều lao mình vào những cuộc chiến đấu kéo dài và vô cùng quyết liệt cũng để lại nhiều hậu quả phức tạp về mặt này cho công việc viết sử.
Bởi vậy, một cuốn sử với nội dung như trên cần phải là một công trình tập thể của nhiều người và phải trải qua nhiều bước kiểm tra, hiệu đính và bổ sung, phát triển mới có thể hoàn thành và hoàn chỉnh.
Công trình này chỉ mong được coi là một phác thảo bước đầu.
Chương I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
Sau hàng thế kỷ vào nước ta bằng thám hiểm, bằng thương mại, bằng tôn giáo, bằng ngoại giao rồi bằng chiến tranh, từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa thực dân Pháp trắng trợn xâm lược nước ta, và từng bước nô dịch dân tộc ta, đặt ách thống trị toàn diện (chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội) của chúng lên khắp Tổ quốc chúng ta.
Đầu những năm 60 của thế kỷ XIX, Pháp chiếm Nam Kỳ. Do kinh nghiệm sử dụng báo chí để chống thế lực phong kiến trên con đường đi tới cuộc Cách mạng 1789 và để đối phó với cách mạng vô sản và nhũng phong trào công nhân sau khi đã thay thế nhà nước phong kiến bằng nhà nước tư bản chủ nghĩa của mình, giai cấp tư sản Pháp rất coi trọng công cụ và vũ khí báo chí. Đến đâu nó cũng mang theo báo chí đến đó và đẻ ra báo chí phục vụ lợi ích của nó đó. Dĩ nhiên là có báo chí bảo vệ nó thì sớm muộn cũng phải có báo chí chống lại nó. Đó là một sự thật có tính quy luật.
Bọn thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ trước hết, thì cũng ở Nam Kỳ trước hết báo chí xuất hiện trên đất nước ta. Sau đó, tuỳ theo từng bước thực dân Pháp mở rộng địa bàn xâm lược của chúng, địa bàn hoạt động của báo chí cũng mở rộng từng bước dần dần. về đại thể, nhìn lại lịch sử cả giai đoạn từ khi có những tờ báo đầu tiên do bọn thực dân cướp nước đẻ ra cho đến khi có những tờ báo đầu tiên của những chiến sĩ tiên phong cứu nước, chúng ta có thể thấy diễn ra mấy thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ đầu mới có báo chí Nam Kỳ
Năm 1962 là năm tên Đô đốc Bonnard dẫn quân lên bộ chiếm lĩnh Sài Gòn, cũng là năm tên đô đốc được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm thống đốc, và cũng là năm ở Sài Gòn có những bản tin đầu tiên là Le Bulletin officiel de Vexpédition de la Cochinchine (Bản tin Công báo của phái bộ viễn chinh Nam Kỳ) và Le Bulletin des Communes (Bản tin hàng xã). Cả hai bản tin đều không in bằng tiếng Việt (chỉ có chữ Pháp hoặc chữ Pháp và chữ Hán), và không đáng gọi là báo chí Việt Nam. Tờ Le Courrier de Sài Gòn (Thư tín Sài Gòn) ra đầu năm 1864 cũng vậy. Thực ra chữ Việt lúc đó chưa có nhiều người đọc. Vả lại, người Pháp đi ra ngoài nước cũng cần có cơ quan thông tin ngôn luận đáp ứng những yêu cầu trong quan hệ nội bộ của họ. Họ cũng đứng trên một lập trường chung của các thế lực thực dân - đế quốc xâm lược nước ta, song về mặt quan hệ nội bộ, trong bọn họ vẫn thường có những phe phái có lợi ích riêng và quan điểm riêng khác nhau.
Tháng 4-1865, tờ báo đầu tiên có một tên gọi Hán - Việt và cũng ra bằng hai thứ chữ Hán, Việt được xuất bản, đó là tờ Gia Định báo. Nhưng đây cũng là một tờ báo ra theo chủ trương của tên Thông đốc Bonnard và do một tên thực dân Pháp quản lý suốt 5 năm đầu. Hai người Việt Nam chịu trách nhiệm chính về việc biên tập và xuất bản là Pe’trus Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của cùng một số người khác làm việc trong cơ quan báo đó đều được chính quyền thực dân Pháp bổ dụng và trả lương theo ngạch bậc công chức báo chí. Rất dễ hiểu rằng nội dung tờ báo là những tin tức và ngôn luận  - ca tụng chính quyền của lũ thực dân Pháp cướp nước. Tiếp theo Gia Định báo, từ 1886 đến những năm 80 có thêm mấy tờ báo nữa ra đời là Phan Yên báo (cũng ở Gia Định), tờ Nhật trình Nam Kỳ ra bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, và tờ Nam Kỳ địa phận bằng tiếng Việt là tờ báo đầu tiên do nhà thờ đạo Thiên chúa xuất bản ở nước ta.
Như vậy, những tờ báo trên đây là những tờ báo đầu tiên ra đời ở Sài Gòn - Gia Định, cũng đồng thời là những tờ báo đầu tiên xuất bản ở nước ta. Trong đó tờ Gia Định báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên. Dù sao, không riêng gì các tờ in bằng chữ Pháp mà cả Gia Định báo cũng là do bọn thực dân Pháp lập ra và nắm rất chặt qua những phần tử trí thức Việt Nam làm việc đắc lực cho chúng. Về chính trị, các tờ báo tiếng Việt kể trên nói chung đều là công cụ của chính quyền và thế lực thực dân. Song, về văn học thì những tin và bài đăng trên các báo ấy không những hình thành thể loại văn học báo chí đầu tiên ở nưóc ta mà đồng thời cũng có thể nói là hình thành thể loại văn xuôi tiếng Việt đầu tiên trên giấy trắng mực đen in ra rõ ràng và đều đặn.
2. Thời kỳ địa bàn kinh doanh và hoạt động báo chí bắt đầu lan ra Bắc Kỳ (1884 -1898)
Sang những năm 80 của thế kỷ XIX, bọn thực dân Pháp ráo riết xúc tiến việc thiết lập bộ máy cai trị thuộc địa của chúng ở Bắc Kỳ, trước hết là ở Hà Nội và Hải Phòng. Địa bàn kinh doanh và hoạt động báo chí cũng bắt đầu lan ra Bắc Kỳ. Năm 1883, ở Hà Nội bắt đầu có nhà in chữ Pháp và chữ Việt. Ngay từ đó, có những báo chữ Pháp ra đời, như: Le Bulletin du Commité d'Etudes Agrécoles, 'Industrielles et Commercmles de VAnnam et du Tonkin (Bản tin Uỷ ban nghiên cứu Nông nghiệp, Công nghiệp và Thương nghiệp của Trung Kỳ và Bắc Kỳ) do Chính phủ bảo hộ phát hành. UAvenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) của Jules Cousin; Le Courrier de Hải Phòng (Thư tín Hải Phòng)... nhằm riêng vào các tầng lớp cựu học đương thời không biết chữ quốc ngữ, có hai tờ báo xuất bản bằng chữ Hán là tờ Bảo hộ Nam dân (1888) và tờ Đại Nam Đồng văn Nhật báo (1892). Cả hai tờ này cũng đều là sản phẩm của bọn thực dân Pháp. Tờ thứ nhất do Cuers de Cogolin cho ra đòi với mục tiêu nêu rõ là: “dạy cho người An Nam biết kính phục Chính phủ của nước Cộng hoà Pháp và những người đại diện của họ”. Tờ thứ hai thì do F.H.Schneider mà Phạm Quỳnh suy tôn là “ông tổ của báo chí Việt Nam” cho ra đời.
Cho đến thời điểm này trong cả nước, chỉ mới có những tờ Gia Định báo, Phan Yên báo, Nhật trình Nam KỳNam Kỳ địa phận xuất bản ở Nam Kỳ là có những tin và bài bằng tiếng Việt, ở Bắc Kỳ, sau khi có tờ báo đầu tiên gần 15 năm, vẫn chỉ có những tin và bài bằng chữ Pháp hoặc chữ Hán... Tất nhiên tình hình không thể dừng lại ở đây. Số người biết chữ quốc ngữ càng ngày càng tăng.
Thế lực thực dân, cả bọn cầm quyền thống trị, cả bọn kinh doanh đều cần thông tin và tuyên truyền trực tiếp với những tầng lớp người Việt bằng tiếng Việt. Và có những tầng lớp người Việt đang vươn lên theo thời thế cũng muôn kinh doanh và hoạt động bằng báo chí tiếng Việt. Trước xu thế đó, chính quyền thực dân không thể không đề ra biện pháp nắm báo chí chặt hơn. Do đó mà có sắc luật ngày 30/12/1898 của Chính phủ Pháp để ra những hạn chế cụ thể và chặt chẽ đối với báo chí.
3. Thời kỳ đầu thế kỷ XX đến cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất
Thực ra những hạn chế nêu trong sắc luật 1898 không phải là nghiệt ngã lắm đôí với những lực lượng đang dựa vào sự có mặt của chính quyền Pháp mà xây dựng cơ đồ. Một số báo chí mới ra đời. Xu thế phát triển ở Nam Kỳ vẫn có phần mạnh hơn. Năm 1901, một tờ báo tiếng Việt nữa ra đời là tờ Nông cổ mín đàm do một tên thực dân Pháp trong Hội đồng quản hạt là Canavagie lập ra. Sau đó tờ Nhật báo Tỉnh cũng là của một tên thực dân Pháp khác và là bản dịch của một tờ báo chữ Pháp mà thôi (1905). Tiếp đó có tờ Lục Tỉnh tân văn của F.H.Schneider (1907). Ở Bắc Kỳ, đến năm 1905 mới có những tin và bài báo tiếng Việt đầu tiên trên tờ Đại Việt tân báo xuất bản bằng cả chữ Việt và chữ Hán song lại do một người Pháp là Ernest cầm đầu. Hai năm sau, tức là vào năm 1907, tờ Đại Nam đồng văn nhật báo đổi thành Đăng cổ tùng báo cũng in bằng hai chữ Hán và Việt. Ngoài ra có tờ Trung Bắc tăn văn và tập tạp chí đầu tiên là tập Đông Dương tạp chí cũng bắt đầu xuất bản vào năm 1913. Tên trùm báo chí thực dân F.H. Schneider cũng là kẻ kinh doanh cả ba tờ báo chí này. Hắn tập hợp những trí thức theo Pháp như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, v.v. làm chủ bút hay biên tập viên cho báo chí của hắn. Riêng Nguyễn Văn Vĩnh thì còn xuất bản hai tờ bằng tiếng Pháp nữa, tức là tờ Notre journal (Tờ báo chúng tôi) và tập Notre revue (Tạp chí chúng tôi) năm 1910. Ở Nam Kỳ, báo chữ Pháp cũng ra nhiều hơn. Trong đó, nổi hơn cả và sống lâu hơn cả là tờ L' Opinion (Dư luận) của Lucien Héloury, về sau là Chủ tịch Nghiệp đoàn Báo chí thuộc địa, thành lập năm 1917.
Trong những năm diễn ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, tên thực dân giảo quyệt Albert Sarraut, lúc bấy giờ làm Toàn quyền Đông Dương, ráo riết thúc đẩy hoạt động báo chí nhằm huy động nhân lực, vật lực của Đông Dương vào cuộc chiến tranh của Pháp, và nhằm đấu tranh với chủ nghĩa đế quốc Đức trên mặt trận ngôn luận ở Viễn Đông. Đọc diễn văn khai mạc một cuộc họp của Nghiệp đoàn Báo chí, hắn đã ca ngợi: “Một tờ báo, một cây bút, quả là một sức mạnh phi thường!”. Do sức thúc đẩy của Albert Sarraut, từ năm 1914 đến cuối năm 1918, trong cả nước, báo chí xuất bản nhiều hơn. Nhất là ở Nam Kỳ có tờ báo tiếng Pháp La Tribune indigène (Diễn đàn người bản xứ) ra năm 1917 và một loạt tờ báo tiếng Việt, như: Tân đợi Thời báo, Công luận báo, Nam Trung nhật báo, Đại Việt Tạp chí, Quốc dãn diễn đàn, Thời báo Đèn nhà Nam,tờ Nữ giới chung là tờ báo phụ nữ đầu tiên ở nước ta. Báo này xuất bản năm 1918 do một người Pháp tên là Henri Blaquière quản lý và do nữ thi sĩ Sương Nguyệt Anh, con của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu phụ trách việc biên tập. Ở Bắc Kỳ, số báo mới xuất bản đáng chú ý có tờ Nam Phong và tờ Học báo. Tờ sau này là một chuyên san về giáo dục do Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Còn tờ Nam Phong là một tờ tạp chí xuất bản bằng hai thứ chữ Việt và Hán chủ yếu do Phạm Quỳnh (phần chữ Việt) và Nguyễn Bá Trác (phần chữ Hán) trông coi công việc biên tập dưới sự điều khiển và giám sát của bọn giữ địa vị chóp bu trong bộ máy cai trị thuộc địa, như Toàn quyển Albert Sarraut, tên Chánh mật thám Louis Marty, v.v.. Cạnh tranh kịch liệt với nhau, tờ Nam Phong của Phạm Quỳnh và tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh chiếm địa vị đàn anh trong hàng ngũ báo chí đương thời ở Bắc Kỳ và cũng có nhiều ảnh hưởng đối với các tầng lớp bên trên trong nước. Sống lâu hơn Đông Dương tạp chí (1913-1918), tập Nam Phong (1917-1934) gần như lũng đoạn được thị trường báo chí Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong mấy năm sau cuộc Chiến tranh thê giới thứ nhất.
Cho đến đây, nghĩa là cho đến cuối thời kỳ nói trên (1900-1918), báo chí xuất bản ở nước ta lúc đó đã có những bước phát triển nhất định về thể loại, về hình thức, về tính đại biểu cho giới này giới khác, ngành này ngành khác, v.v.. Dù sao, về tư tưởng và chính trị báo chí nói chung đều là đề cao thanh danh, công đức và quyền lợi của “đại Pháp” đối với triều đình phong kiến, thỉnh thoảng ở nơi này nơi khác, trên một vài tờ báo Nam Kỳ chẳng hạn, đã có những lời phê phán, châm biếm, đả kích ít nhiều. Nhưng lấy hệ tư tưởng và biểu hiện chung mà nói thì báo chí đều là ca ngợi “đại Pháp”, hướng theo “đại Pháp” cả. Nghĩa là không có băn khoăn gì về tình cảnh nước nhà bị xâm lược, dân tộc bị giày xéo, đoạ đày dưới ách bọn đế quốc thực dân.
Một điều đáng chú ý nữa là, trên toàn bộ đất nước chia làm ba kỳ, trong khi Nam Kỳ và Bắc Kỳ đã có mấy mươi tờ báo và tạp chí ra đời đưa tin và bàn tán nhiều chuyện, thì Trung Kỳ, cả giữa kinh đô Huế, vẫn im lìm, vẫn là một nơi hoang vắng.
4. Thời kỳ có báo chí đối lập với chính quyền
Năm 1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi huy hoàng, mở ra thời đại mới hiện nay, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người. Quãng một năm sau, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Một thế giới mới, thế giới xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành và biểu hiện ngày càng rõ tư thế đối lập với thế giới cũ, tư bản chủ nghĩa. Trên hướng tiến của lịch sử, xuất hiện từng bước những dòng thác của cách mạng vô sản đi tới những mục tiêu độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng rạng rỡ của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Ái Quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam năm 1911 ra đi tìm đường cứu nước, tới lúc này đã đến với chủ nghĩa Lênin và vô cùng cảm động, vô cùng sung sướng nhìn ra chân lý của thời đại, thấy rõ con đường thắng lợi của công cuộc giải phóng Tổ quốc, giải phóng đồng bào.
Cũng từ nước Pháp, nhưng là nước Pháp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của Marcel Cachin, Vaillant -Couturier, Gaston Mon Mousseau..., người cộng sản Việt Nam đầu tiên tìm đủ mọi cách đưa ánh sáng ấy và con đường thắng lợi ấy về cho đất nước mình, nhân dân mình. Một trong những cách tốt nhất, nhanh nhạy nhất là báo chí. Le Paria (Tiếng Ấn Độ dùng để chỉ đẳng cấp cùng khổ nhất trong xã hội cũ, từ lâu, sách báo ta thường dịch là “người cùng khổ” và gọi báo Le Paria là báo “Người cùng khổ” nhưng trên báo Le Paria thì có tên chữ Hán là “Lao động”), chưa phải là tờ báo Việt Nam của cách mạng Việt Nam, nhưng đó là tiếng nói chung của sự nghiệp đấu tranh chung vì độc lập, tự do của các dân tộc cùng khổ bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột, trong đó có dân tộc Việt Nam. Cùng với một số báo chí vô sản và những tài liệu bí mật khác, Le Paria vượt qua bao nhiêu rào luỹ đến với những chiến sĩ tiên phong của nhân dân Việt Nam.
Trong khi đó, đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam cũng đã có những sự thay đổi và những nhân tố mới để đón lấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại, và con đường thắng lợi của cách mạng vô sản. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), hoạt động tăng cường kinh doanh tư bản chủ nghĩa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam đã đưa nó đến chỗ chính tự nó đẻ ra người đào huyệt chôn nó ở Việt Nam: giai cấp công nhân Việt Nam. Cùng chung đau khổ, căm hờn với các giai cấp cần lao vì nước bị cướp mất, dân tộc bị đoạ đày, những người thanh niên trí thức tiên tiến, dưới sự tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga, của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, và của người lãnh tụ đưa đường chỉ lối từ phương trời xa, càng ngày càng tỏ ra thiết tha và nhạy bén với trào lưu và xu thế cách mạng vô sản.
Một nét đáng chú ý nữa của tình hình thời kỳ này là việc hai chí sĩ họ Phan về nước. Phan Bội Châu bị bắt tại Trung Quốc, đưa về xử án tại Hà Nội rồi giam lỏng ở Huế. Phan Chu Trinh được đưa từ Pháp về Sài Gòn. Vụ án Phan Bội Châu và tâm trạng Phan Chu Trinh đều kích động một thời khá mạnh tinh thần yêu nước và tinh thần dân chủ trong một sô tầng lớp xã hội, nhất là trong những thế hệ trẻ.
Mặt khác, trên lĩnh vực kinh tế, một số người đã đi vào những công cuộc kinh doanh và bước đầu đã trở thành những nhà tư sản.
Đương nhiên, bè lũ thực dân cũng khá thính hơi để nhận ra tình thế. Báo chí, một thứ phong vũ biểu chính trị - xã hội, tự giác hoặc không tự giác, không thể không phản ánh ít nhiều những sự thật cơ bản như trên. Và thái độ của chính quyền thuộc địa đối với báo chí cũng không thể không biểu lộ quá rõ lập trường quan điểm của bọn thực dân xâm lược đối với những diễn biến quan trọng của thời cuộc. Nhìn riêng vào báo chí có thể thấy một số động thái mới đáng chú ý.
1. Trong các báo chí đã hoạt động từ trước, không ít đã đình bản hẳn hoặc đã thay đổi bộ mặt. Trong các báo mới ra đời từ năm 1920 đến năm 1930, kể cả báo chữ Việt và báo chữ Pháp, có nhiều tờ, bằng tên gọi của mình, đã tỏ dụng ý thu hút sự quan tâm của xã hội vào những lĩnh vực kinh doanh kinh tế theo hướng đi lên chủ nghĩa tư bản, như Nam Kỳ Kinh tế báo, Điện xa tạp chí, Canh nông luận... ở Nam Kỳ; Thực nghiệp dân báo, Nông công thương báo, Thương báo... Bắc Kỳ.
2. Một số tờ báo, bằng tên gọi của mình, đã tỏ dụng ý nêu ra một lập trường chính trị nào đó không lẫn lộn với những báo khác và cũng không phải là một đạo lý chung chung, như: Trung lập báo, Long giang độc lập...
3. Thái độ tranh thủ lôi kéo thanh niên, phụ nữ biểu hiện rõ hơn trước trên những tờ Việt Nam Thanh niên tạp chí, Thanh niên tăn tiến, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... Riêng về Việt Nam Thanh niên tạp chí thì cần nói rõ ràng đó là một cơ quan của bọn cầm quyền nhằm đầu độc tuổi trẻ nước ta. Báo đó có những cái “vinh dự” ghê gớm là do tên Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot và tên Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải làm chủ tịch, tên chánh mật thám Đông Dương Louis Marty làm chủ tịch danh dự, tên thực dân Paul Monet làm chủ nhiệm và lại được Hoàng đế Khải Định gửi tặng 1000 đồng khi nó ra đời. Gần với dụng ý tranh thủ thanh niên, phụ nữ, người ta nhìn thấy sự đề cao cái trẻ, cái “mới”, cái “sáng” đang lên. Giữa những cái tên biểu thị đạo lý chung chung của những thời kỳ trước, có nhiều tên gọi biểu thị sự đề cao cái trẻ, cái mới và cái sáng, như: Tân dân báo, Tân thê kỷ, Văn minh, Rạng đông tạp chí, Đuốc nhà nam, Jeune Annam (An Nam trẻ).
4. Còn có không ít báo chí mà tên gọi tự nó biểu thị ý thức dân chủ theo một quan niệm nào đó, như Dân báo, Tân dân báo, Dân hiệp, v.v.. Một nhân tố mới cần nói đến ồ đây là “xứ” Trung Kỳ sau nửa thế kỷ mất nước không hề có một tờ báo nào, chỉ có thể đọc báo từ Nam Kỳ ra và từ Bắc Kỳ vào, thì đến thời kỳ này đã có một tờ báo Việt Nam xuất bản đầu tiên ồ Huế: tờ báo của chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, tờ Tiếng dân ra số đầu ngày 10/8/1927 thường đăng các bài của Minh Viên (Huỳnh Thúc Kháng), của Sào Nam hoặc Việt Điểu (Phan Bội Châu), của Trần Đình Phiên, Đào Duy Anh, Nguyễn Quý Hương tức Lạc Nhân, v.v..
5. Sự phân ngành trong báo chí có phần đa dạng hơn các thời kỳ trước. Ngoài những tờ báo và tạp chí thông tin thời sự chung và bàn luận đạo lý chung như Hữu thanh, Khai hoá, Đông Pháp thời báo, An Nam tạp chí, Pháp Việt nhất gia, Hà Thành ngọ báo, Thần kinh tạp chí, Quảng Đạt báo, Thần chung và những báo địa phương - nhất là ở Trung Kỳ, những báo chuyên riêng để phục vụ một ngành, một giới không còn quá lẻ loi nữa. Đáng kể là có những tờ như Trung hoà nhật báo của Hội ái hữu Công giáo ở Nam Kỳ, Vệ nông báo về nông nghiệp, Kịch trường tạp chí về sân khấu, Trung Kỳ vệ sinh chỉ nam về y tế - vệ sinh, Du học báo về vấn đề sang Pháp học tập, Mua và bán về thương mại, Học báo về giáo dục - học tập, Sài Thành nhật báo về đua ngựa, v.v..
6. Về nghiệp vụ, cũng nên chú ý đến một xu hướng cải cách tương đốì mạnh. Thể loại báo chí có tăng phần nào so với trước kia. Lối văn quá nhiều điển tích và thành ngữ chữ Hán cùng với lời văn biền ngẫu không còn được ưa thích lắm nữa, nhất là trong giới “tân học”. Hoàng Tích Chu cùng với Phùng Tất Đắc xuất bản tại Hà Nội từ ngày 15/12/1929 tờ báo Đông Tây vừa đề ra và cổ vũ sự đổi mới, vừa cố gắng làm mẫu cho người khác noi theo. Trên thực tế, mẫu “Đông Tây” cố ý cải cách cái “Đông” cũ kỹ nhưng lại thường ngả sang cái “Tây” quá xa lạ. Dù sao sự cải cách đã có những đóng góp nhất định cho sự thể hiện tính khoa học và tính dân tộc của văn học báo chí nói riêng và cả của văn xuôi tiếng Việt nói chung.
7. Nổi bật lên trên tất cả là sự phân hoá của báo chí về mặt tư tưởng và chính trị. Ở các thời kỳ trước, về mặt này không phải không có những sự khác nhau. Chẳng hạn, báo chí của nhóm Nguyễn Văn Vĩnh và báo chí của nhóm Phạm Quỳnh, hay là tờ Khai hoá nhật báo của nhóm Bạch Thái Bưởi - Đỗ Thận và tờ Thực nghiệp dân báo của nhóm Bùi Huy Tín - Trần Văn Quang thường vẫn đá nhau lộ liễu hoặc ngấm ngầm. Ở Nam Kỳ, báo chí của nhóm Bùi Quang Chiêu và báo chí của nhóm Lê Quang Trinh cũng chống chọi nhau thường xuyên. Cả bên trong bọn thực dân Pháp với nhau cũng có những phe phái dùng báo chí đấu tranh với nhau. Nhưng nói chung, sự chống nhau giữa “trực trị” và “bảo hộ”, giữa “quân chủ” và “quân chủ lập hiến” cũng như sự khác nhau giữa những chính sách thuộc địa của nhóm Doumer và những chính sách thuộc địa của nhóm Outrey, v.v., xét cho cùng đều biểu thị một tư tưởng và một lập trường chính trị giống nhau là đề cao “đại Pháp”, bám chặt vào “Mẫu quốc đại Pháp”. Cho nên tất cả các báo chí đó đều không vượt ra ngoài những sự hạn chế cơ bản do sắc luật ngày 30/12/1898 của Chính phủ Pháp, hay là nói đúng hơn nữa, đều được “ngôn luận tự do”. Riêng cái triều đình Huế, hay là cái Chính phủ Nam triều nếu thỉnh thoảng có bị đả kích và xúc phạm vì quá cổ hủ hoặc quá tham nhũng thì “Nhà nước bảo hộ” cũng chẳng có gì đáng lo nghĩ cho bản thân mình, mà trái lại có thể lợi dụng để tỏ ân uy với vua và cả đức độ với “dân”. Bởi vậy, báo chí các thời kỳ trước kia, nhìn chung lại, dù có những sự khác nhau nào đó trên diễn đàn ngôn luận, chắng qua là thể hiện một cách tương đối đa dạng vai trò làm công cụ và vũ khí của thế lực thông trị, của chủ nghĩa thực dân Pháp mà thôi.
Sang thời kỳ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, hay là, nói cho chính xác tận gốc, sau khi lịch sử loài người đã bắt đầu chuyển sang thời đại mới do Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra, sự phân hoá của báo chí Việt Nam về tư tưởng và chính trị có ý nghĩa quan trọng hơn, đặc sắc hơn, hiện ra dần dần dấu ấn của thời đại mới.
Có những người viết lịch sử báo chí vận dụng quan điểm và phương pháp kinh điển của các nhà tư tưởng tư sản cũng đã thấy một sự phân hoá mới và coi đây là sự phân hoá về hai loại báo chí “thân” và “chống” đối với chính quyền, hoặc thành báo chí “thân chính quyền” và báo chí “đối lập”. Loại “thân chính quyền” lại có thể chia thành “thân tuyệt đối” và “thân tương đối”. Còn loại “đối lập” thì lại bao gồm “đối lập gay gắt” và “đối lập ôn hoà”. Có thể coi đó là một sự phân định theo quan điểm pháp lý. Trên hiện tượng, chúng ta cũng có thể sử dụng sự phân định ấy trong những chừng mực nhất định. Song đi sâu vào bản chất lập trường tư tưởng và chính trị, chúng ta thấy thực sự không giản đơn.
Theo sự phân định kinh điển và trên hiện tượng, người ta thường xếp vào loại “đối lập” những tờ báo tiếng Việt: Nhật tân báo của Lê Thành Tường rồi đến Cao Hải Để, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 4/1922 đến tháng 7/1929; Tân Thế kỷ của Cao Văn Chánh và Bửu Đình xuất bản từ ngày 1/11/1926 đến ngày 30/4/1927 tại Sài Gòn, Rạng Đông tạp chí do người Pháp Georges Mignon lập ra và do Trần Huy Liệu làm chủ bút, xuất bản tại Sài Gòn năm 1926 (đến tháng 7/1927, chủ bút Trần Huy Liệu bị bắt, thì Tạp chí Rạng Đông thay đổi màu sắc, trở thành “một tạp chí tranh ảnh cho giới thượng lưu trí thức Annam”.); Tiếng dân của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng ra đời ở Huế ngày 10/8/1927 và tiếp tục xuất bản cho đến năm 1943; Kỳ lân báo của Bùi Ngọc Thự và Vân Trình, xuất bản ở Sài Gòn từ ngày 1/8/1928 đến giữa năm 1929.
Đuốc Nhà Nam của Dương Văn Giáo, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 9/1928 đến năm 1937; Pháp Việt nhất gia của Lê Thành Lư xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 2 đến tháng 5/1927; Thần chung của Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 1/1929 đến tháng 3/1930; và mấy tờ báo chữ Pháp: La Cloche fêlée (Tiếng chuông rè) của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 12/1923 đến tháng 5/1926; Annam của Phan Văn Trường, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 5/1926 đến tháng 2/1928; Voix Annamite (Tiếng nói Annam) của Lê Thành Tường và Huỳnh Văn Chính, xuất bản từ tháng 1/1923 đến năm 1925; Progrè Annamite (Tiến bộ Annam) của Lê Quang Trình, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 3/1924 đến năm 1939; Jeune Annam (Annam trẻ) của Lâm Châu Hiệp xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 3/1926; Nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn, xuất bản tại Sài Gòn năm 1926; Ère nouvelle (Kỷ nguyên mới) của Cao Hải Để và Vũ Đình Di, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 8/1926 đến tháng 6/1929; La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương) của Bùi Quang Chiêu, xuất bản tại Sài Gòn từ tháng 8/1926 đến tháng 1/1941...
Ngoài ra, những báo chí xuất bản công khai và phát hành công khai khác nói chung là thuộc loại “thân chính quyền”. Nói cho thật đúng, không phải báo chí nào thuộc loại này cũng đều có lời tuyên bô’ hay là đăng những bài nghị luận rõ ràng ca ngợi chính quyền hoặc ủng hộ các chủ trương chính trị của nó. Nhiều nhà báo tỏ rõ thái độ không nói năng gì về chính trị mà chỉ tuyên truyền về tôn giáo, đưa tin thi cử, tường thuật bóng đá, đua ngựa, nói chuyện “du học” với các bạn trẻ, chuyện nữ công, nữ hạnh với các bà nội trợ, chuyện kinh doanh với các nhà công nghiệp, thương nghiệp, v.v. cũng thường được chính quyền yêu quý và giúp đỡ bằng nhiều cách.
Cái mới trong “làng báo” là việc xuất hiện những báo chí đối lập. Yên tâm với báo chí “thân chính quyền” dưới mọi màu sắc, thế lực thống trị tập trung mũi nhọn chuyên chính phản động vào báo chí “đối lập”. Cánh kéo kiểm duyệt cắt bỏ từ một vài dòng đến cả cột, cả bài, hoặc cả trang và hơn nữa. Các cơ quan tư pháp và hành chính phạt tiền, tịch thu báo chí, và cấm xuất bản, phát hành. Gay gắt hơn nữa là những biện pháp khủng bố con người, cả người ra báo, người viết báo và người đọc báo... Trong những nhà báo đầu tiên cùng với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Trần Huy Liệu... bị chính quyền thực dân bắt bớ, hiện nay đang hoạt động trong hàng ngũ chúng ta có Nguyễn Khánh Toàn của báo Nhà quê, một tờ báo ngay trong số đầu ra ngày 11/12/1926 đã kêu gọi: “... những ai còn sinh lực, bầu máu nóng hãy tranh đấu để bẻ gãy xiềng xích nô lệ, để cho con cháu chúng ta được trở thành công dân của một nước hùng mạnh và tự do...”. Lý do truy tố của toà án là: “xúi giục nổi loạn, nghĩa là dùng những phương tiện có thể phá hoại an ninh công cộng” (theo tường thuật của báo Ère Nouvelle, số ra ngày 18/12/1926).
Tình trạng có sự đối lập giữa chính quyền và báo chí chống chính quyền diễn ra ở Nam Kỳ nhiều hơn không phải chủ yếu là do ở Nam Kỳ có sự đối lập chính trị nói chung chống lại chính quyền nhiều hơn, mà là do ở Nam Kỳ, công việc ra báo dù sao cũng có những điều kiện thuận hơn về các mặt kinh tế, xã hội và thể chế, luật lệ so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. về kinh tế là điều kiện kỹ thuật ấn loát, phát hành... về xã hội và thể chế luật lệ là điều kiện có tương đối nhiều người Pháp khác quan điểm với bọn cầm quyền, sẵn sàng cộng tác với những người trí thức tân học Việt Nam để ra báo. Chính khả năng “lợi dụng lẫn nhau” này đã thu hút nhiều nhà báo từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào Nam Kỳ hoạt động và đã đưa đến hiện tượng báo chí công khai đối lập chiếm tỷ trọng lớn hơn trong các báo chí xuất bản công khai bằng tiếng Pháp ở Nam Kỳ, Song, nói đến báo chí đối lập chống lại chính quyền đương thời lại cần phải thấy tình hình thực tế về hệ tư tưởng và hệ lập trường đấu tranh chính trị là không giản đơn. Giới báo chí không phải là một tổ chức thuần nhất và thống nhất. “Đối lập gay gắt” và “đối lập ôn hoà” là khác nhau. Giữa “đối lập ôn hoà” này và “đôì lập ôn hoà” kia cũng như “đối lập gay gắt” kia với “đối lập gay gắt” nọ, thường có sự khác nhau, thậm chí có cả sự đối lập và đốì lập gay gắt với nhau.
Xét cho cùng, sự phân hoá khách quan quyết định nhất và sự phân biệt thái độ có tính nguyên tắc quan trọng nhất mà thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội của loài người ở thời đại mới đòi hỏi thể hiện đúng đắn là sự đối lập giữa các lực lượng cứu nước và các thế lực cướp nước và bán nước, giữa giai cấp vô sản và đông đảo nhân dân lao động với giai cấp tư sản và các thế lực áp bức bóc lột, giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với các hệ tư tưởng phản động.
Trên toàn thế giới, kỷ nguyên mới, thời đại mới đã toả ánh bình minh. Ba mục tiêu lớn của cách mạng vô sản - độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội - càng ngày càng rõ. Nhằm vào các mục đích lớn đó, ba dòng thác cách mạng, vượt qua bao nhiêu vật chướng ngại, tiến lên không ngừng. Các nhân tố mới ấy tạo nên thế mạnh chung của thế giới mới chiến thắng được sức ỳ và sức cản của thế giới cũ. Và đó là sự đối lập cơ bản nhất, quyết định nhất của thời đại. Do tác động qua lại lẫn nhau giữa tình hình thế giới và hoàn cảnh xã hội nước ta, giữa những nhân tố mới bên ngoài và những nhân tố mới bên trong như đã trình bày trên kia, sự đối lập cơ bản nhất và quyết định nhất trong nước ta ở thời kỳ này cũng tương ứng với sự đối lập lớn nhất, bao quát nhất trên khắp năm châu. Người chiến sĩ tiên phong cứu nưóc trở thành người cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền tảng và mở đường lối cho sự gặp nhau, sự kết chặt với nhau giữa các nhân tố mới bên ngoài và các nhân tố mới bên trong đất nước chúng ta, tạo nên một thế mạnh đối lập tất thắng chống lại các thế lực cướp nước và bán nước, các thế lực thực dân, đế quốc, các hệ tư tưởng phản động trong quãng mười năm thứ ba (1920-1930) của thế kỷ XX nói chung là do có chịu những tác động nào đó của sự đối lập cơ bản nhất và quyết định nhất này ở một mức độ nào đó và theo một chiều hướng nào đó mà ra. Nói như vậy không có nghĩa là các báo chí công khai đối lập kể trên lúc bấy giờ đã là đại biểu cho thê mạnh chung của các nhân tố mối trong xã hội chúng ta chống lại chính quyền phản động. Cách mạng Tháng Mười Nga, ba dòng thác cách mạng thế giới và chủ nghĩa Mác - Lênin có cổ vũ người này, nhóm này, kích động người khác, nhóm khác. Do sức hấp dẫn ấy, người ta cảm thấy có một thế vững mạnh và một tính ưu việt nào đó để phát huy trong khi đối địch bằng ngôn luận với chính quyền. Nhưng trên thực tế, những báo chí và những nhà báo công khai đối lập với chính quyền thực dân, phong kiến đương thời đều chưa phải đã đi con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản thế giới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin. Cả trong những người tiến bộ nhất từ nước Pháp trở về, cũng không có ai nhìn thấy điểu kỳ diệu đã làm cho Nguyễn Ái Quốc reo lên một mình: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Cho đến cuối những năm 20, các báo chí công khai đối lập là đối lập trên lập trường dân tộc chủ nghĩa (hồi đó gọi là quốc gia chủ nghĩa), trên lập trường dân chủ thuần tuý (chính là dân chủ Pháp, Anh, Mỹ), hoặc trên lập trường của Quốc tế thứ hai và thứ tư...
Điều mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy là do chính Nguyễn Ái Quốc đưa về, từ Pari, từ Mátxcơva qua Pari, rồi từ Quảng Châu...
Đến đây, lịch sử đấu tranh cứu nước của dần tộc Việt Nam chuyển sang một chương mới, mở đầu bằng sự thành lập Đảng Cộng sản.
Đến đây, lịch sử báo chí Việt Nam cũng sang một chương mới, đánh dấu bằng sự xuất hiện và sự hoạt động của một loại báo chí mới thuộc một phạm trù mới, về cơ bản khác hẳn các loại báo chí đã từng xuất hiện và hoạt động công khai ở những thời kỳ trước. Về lập trường giai cấp và hệ tư tưởng, đây là báo chí vô sản Việt Nam, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của Tổ quốc Việt Nam và nhân dân Việt Nam, vì thắng lợi chung của ba dòng thác cách mạng vô sản và của hoà bình bền vững toàn thế giới.
Về phương thức xuất hiện và hoạt động, đây chủ yếu là báo chí bí mật, dựa vào sức mạnh của nhân dân, sống trong lòng tin yêu của nhân dân, kiên cường chiến đấu từ thời kỳ này sang thời kỳ khác cho đến Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
(Hết phần 1).

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Lược khảo nội dung bàn về nhà nho Việt Nam đầu thế kỉ XX qua một số bài viết quốc ngữ trên Nam Phong tạp chí



Trong suốt 17 năm tồn tại (1917 – 1934) với 210 số, Nam Phong tạp chí đã giành một dung lượng không nhỏ để đăng tải các bài viết biên khảo, dịch thuật liên quan tới Nho học nói chung và Nho học Việt Nam nói riêng, ở cả phần chữ Hán (do Nguyễn Bá Trác chủ bút) và chữ Quốc ngữ (do Phạm Quỳnh chủ bút). Ta có thể tạm phân chia nội dung Nho học trên Nam Phong tạp chí thành sáu mảng:
1. Khảo luận về triết học tư tưởng Khổng Mạnh và Nho giáo (gồm các bài chuyên khảo của học giả Việt Nam và dịch thuật các bài viết của học giả người Pháp, Nhật và Trung Quốc).
2. Truyện ký về Khổng Tử và các danh Nho Trung Quốc, Việt Nam. 3. Khảo luận về vấn đề nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX. 4. Khảo về giáo dục Khoa cử Nho học.
5. Phiên dịch kinh điển Nho gia (gồm Luận ngữ (một phần), Mạnh tử (toàn văn)và Xuân thu Tả truyện (một phần), cùng các cách ngôn danh cú tuyển chọn từ thư tịch cổ). 6. Phiên dịch trước tác văn chương của các nhà Nho.
Có thể thấy, Nam Phong tạp chí là một bộ tư liệu quý trong số các công trình nghiên cứu, biên khảo của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX nghiên cứu về Nho học, cần được chúng ta đặc biệt chú ý. Bởi lẽ các bài viết của tạp chí này mang nhiều yếu tố mới mẻ trong việc phản tư, nhìn nhận lại địa vị, vai trò, cùng sự ảnh hưởng của Nho học và nhà Nho truyền thống đối với nền học thuật và xã hội Việt Nam hiện đại. Trong bài viết này, chúng tôi hướng đến tìm hiểu một số bài viết liên quan đến nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, thuộc một trong sáu mảng nội dung nói trên. Đây là vấn đề mang đậm tính thời sự, được giới trí thức Nam Phong quan tâm bàn luận. Trong giai đoạn bản lề lịch sử đầy biến động, trí thức Nam Phong đã tiến hành phân tích hiện trạng của tầng lớp nhà Nho Việt Nam trong cuộc đại khủng hoảng, suy cứu nguyên nhân thất bại, đồng thời họ đã tiến hành đánh giá lại vai trò, vị thế của nhà Nho xưa nay, để nhằm đưa ra giải pháp vãn hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho các nhà Nho khỏi cơn bĩ cực. Do dung lượng có hạn, nên trong bài viết này, chúng tôi mới chỉ tập trung tìm hiểu các bài viết trực tiếp bàn về vấn đề nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX thuộc phần Quốc ngữ của Nam Phong tạp chí, cụ thể gồm 5 bài viết: 1. Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, nguyên tác Hán văn của Nguyễn Bá Trác, Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch ra Quốc ngữ, số 51, tháng 9 năm 1921; 2. Học phong và sĩ khí của Phạm Quỳnhsố 79, tháng 1 năm 1924; Nhà Nho có lẽ chịu sầu của Trúc Hàsố 130, tháng 6 năm 1928; Nhà Nho của Phạm Quỳnhsố 172, tháng 5 năm 1932; Phái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ của Phạm Quỳnhsố 195, tháng 5 năm 1934. Hy vọng bài viết có thể đóng góp một tiếng nói nhỏ cho những ai cùng chung vấn đề quan tâm.
1. Hiện trạng nhà Nho Việt Nam trong buối giao thời đầu thế kỷ XX dưới ngòi bút của Nam Phong tạp chí
Chúng ta biết, năm 1915 (Duy Tân 9) và năm 1918 (Khải Định 3), Bắc kỳ và Trung kỳ lần lượt diễn ra hai khoa thi Hương cuối cùng. Và đến năm 1919, (Khải Định 4), triều đình tổ chức khoa thi Hội cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, và cũng là kỳ thi cuối cùng trong lịch sử khoa cử hơn 800 năm của Việt Nam. Sự kiện chấm dứt khoa cử này được ban hành theo chỉ dụ của vua Khải Định vào ngày 4/11/1918. Khoa cử chấm dứt cũng đồng thời đánh dấu sự suy tàn và chấm hết của ý thức hệ Nho giáo tồn tại ở Việt Nam hơn 1000 năm. Sự cáo chung của Nho giáo truyền thống, cùng sự du nhập văn minh Tây phương vào Việt Nam trong buổi “giáp hạt”[2]đầu thế kỷ XX, đã khiến học giới nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Cựu học đang trong giai đoạn suy tàn, phải hứng chịu những búa rìu phê phán hết sức nặng nề từ phái Tân học. Trong quan niệm của Tân học, Cựu học chỉ là thứ giây ác nghiệp để buộc trói thiên hạ trong vòng chuyên chế[3], hay chỉ là một thứ học thuyết “hủ lậu”, đáng bị phỉ báng. Trong đám Tân học ấy, có những kẻ thậm chí “vừa nhào được trong cái hình thức tân học thì đã quay đầu thóa mạ cựu học”. Còn Hán văn thì bị coi là “cái văn tự vô dụng”. Trong bối cảnh đó, số phận của phần lớn tầng lớp nhà Nho – vốn là những “giáo sĩ truyền đạo Khổng Mạnh”, là một “giai cấp trong xã hội, tức là hạng thượng lưu trí thức trong nước”, vốn giữ một chức vụ cao quý làm “hướng đạo cho quốc dân, làm tiêu biểu cho cả nước” trong xã hội Việt Nam, phải gánh một số phận nghiệt ngã, bế tắc, đứng trước bờ vực diệt vong. Thậm chí, nhà Nho đã phải chịu mang tiếng “làm mất nước” như có người từng kết ánMở đầu bài viết Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho[4]Nguyễn Bá Trác đã ngậm ngùi than cho tình cảnh của lớp nhà Nho Việt Nam trong buổi cáo chung của Nho giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX rằng: “Than ôi, bạn nhà Nho ta bấy lâu dùi mài kinh sử, chất bằng kim thạch, con nhà thánh hiền có đâu đến nỗi lông bông hư hỏng bao giờ; chẳng may gặp phải thời buổi gạn lọc, cái đời ao nghiên ruộng sách của anh đồ, đã là cái đời gác đi, chẳng những cái địa vị ăn sung mặc sướng trên xã hội chẳng đến mình, thậm chí cái đường tìm vành ấm no, cũng vì buôn trái nghề bán trái nghiệp, thợ chẳng hay, cầy chẳng biết, dở dở dang dang mà phải chịu thu tay bó gối, ngày nay trông thấy đã nhiều”. Và ông nhận định rằng: “Cứ cái tình thế hiện nay xem ra thì phàm những phái nhà Nho, và những phái không phải nhà Nho chăng nữa, trông thấy cơ mần thất bại ấy, ai chẳng bảo là cái hồi ách vận, cái cuộc bi quan của phái nhà Nho, nhà Nho vì thế mà tủi phận hờn duyên, mà người ngoài cũng vì thế mà thương vay khóc mướn”.[5] Ông thấy các nhà Nho hiện thời: “Bao nhiêu học vấn, bao nhiêu kiến thức thủa bình sinh của nhà Nho, tự khi khoa cửa đã bỏ đi rồi, phàm những người có tâm với Hán học thì chẳng qua chỉ thở ngắn than dài, viết ra bài phú thương thời, hát lên câu thơ cảm sự đó thôi; nếu chẳng thế, thì lại cho đời mình là cái đời bỏ đi có làm chi nữa, thà rằng ngao du tiêu khiển, thôi dũng đành dứt tình với đời Hán học rủ nhau cùng về đến cõi hư không đấy thôi; lục kinh còn hay mất, chẳng hỏi chi nữa; đạo đức hay hay dở, chẳng kể chi nữa”.[6] Còn Phạm Quỳnh nhận xét: “Nhà Nho có lẽ đến nay là cùng vận. Con nhà Nho bây giờ là cái vật trái mùa, còn ai là người quý chuộng. Dẫu còn thoi thóp dăm ba kẻ, cũng tự mình không tin mình rồi, còn mong gì kẻ khác trọng nữa”.[7] Nguyễn Bá Trác thì cho rằng phái Hán học “ngày nay đã thuộc về thời kỳ trở về già sắp sửa hết duyên, lại còn cắm sào đợi ai nữa?”, và hiện giờ quang cảnh của phái đó chỉ là “ một sợi tơ mành vắt ngang trời đất”, hay là “một sợi tóc rong với quả chì”[8] mà thôi. Còn Nguyễn Đôn Phục đã tổng kết thân phận của nhà Nho Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu thế kỷ rẳng họ phải “trải đủ mọi đường vinh nhục thăng trầm”, và ông đoán biết rằng “phái nhà Nho tự nay trở đi, như ông sao lúc gần sáng, chắc là ít dần đi”. Trong con mắt của thanh niên đương thời, nhà Nho được Nam Phong tạp chí miêu tả như sau: “Kể về tư cách thì là một bọn hủ Nho sốc nổi, kể về tài tình thì chỉ biết chiều lụy người trên, hách dịch kẻ dưới, mà nói về học thức thì có gì đâu, ngày như đêm, đêm như ngày, gào chữ như quốc, dùi sách như mọt, để mưu lấy cái chức vị trong triều đình, và khi đã đạt đến cái mục đích ấy rồi, thế là toại chí thỏa lòng, không còn hoài vọng gì cao xa hơn nữa.”[9] Người đương thời tân tiến khinh rẻ nhà Nho như vậy, còn bản thân nhà Nho trong cái “hồi ách vận, cái buổi bi quan” ấy cũng mang nặng một tâm lý bất đắc chí, “tự rẻ rúng mình” mà “tủi phận hờn duyên”, đành ngao ngán cam chịu một bề “thu tay bó gối”. Trước sự thoái trào của Cựu học, Nguyễn Đôn Phục thừa nhận đó là xu thế tất yếu của thời đại: “Đối với con đường cũ, đã thuộc về cái thời thế nó áp bách, chẳng phải đợi ai phá hoại mà đã có thế tiêu hao”.[10] Tuy nhiên, theo Phạm Quỳnh, ngoài vấn đề thời thế, nguyên nhân“bày ra cái cảnh tượng điêu tàn như bây giờ”, cũng thuộc về trách nhiệm của nhà Nho: “Tựu trung bởi thời thế không lợi cũng có mà bởi nhà Nho tự khinh phần nhiều vậy”. Ca dao xưa có câu: “Chẳng ham ruộng cả ao liền, ham về cái bút cái nghiên anh đồ”, hay “Chẳng ham vựa lúa anh đầy, ham ba hàng chữ cho tầy thế gian”, thì tới nay, chúng ta thấy, cái thủa vàng son “ao nghiên, ruộng sách” của “anh đồ” Việt Nam đang lùi xa dần vào quá khứ.
Trước bối cảnh đó, thế hệ nhà Nho “thất thế” của Việt Nam đầu thế kỷ XX, đang từng bước phân hóa, chuyển đổi thành những thành phần khác nhau. Sự  phân loại, mô tả, bình giá tầng lớp nhà Nho thời kỳ này trên Nam Phong tạp chí, có thể giúp ta biết hơn về hiện trạng của nhà Nho, cũng như thái độ của giới trí thức cấp tiến đối với nhà Nho Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, trong bài Nhà Nho có lẽ chịu sầu?, Trúc Hà đã phân chia lớp nhà Nho đang tách thành “ba bè bảy đảng”thành hai nhóm chính sau: “Ngày nay đã chia ra ba bè bảy đảng, có đảng chứa chan những hy vọng cao xa, đương hăng hái trên con đường tân học” và “có đảng còn đang yên vị trong nho trường mà than dài, mà thở vắn”.Đối với lớp trước thì ông khen ngợi “có cái tâm chí cao thượng ấy, thật đáng kính phục thay”. Còn đối với lớp sau, ông bày tỏ “nghĩ cũng ái ngại xót xa thay”.[11]
Thứ hai, trong bài Phái nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ, Nguyễn Đôn Phục đã tiến hành tổng kết và phân chia nhà Nho thành 3 phái: phái duy tân, phái lười biếng, bạc nhược và phái a dua. Đồng thời, tác giả đã tiến hành phân tích, bình luận về ba phái nhà Nho này:
1. Phái duy tân: “Phái này thì nhờ về cái tinh hoa của Khổng giáo, biết đạo minh đức, biết nghĩa tùy thời. Kịp khi gặp có phong trào duy tân của Trung Quốc, tỉnh ngộ ra rằng lối khoa cử là hủ bại, không đủ ứng tiếp với thời đại đua chen, cực lực hô hào công kích lối cũ, hoan nghênh lối mới, để làm tai làm mắt, hướng đạo cho quốc dân. Cuốn sách họ Khang họ Lương chẳng khác gì cuốn kinh nhật tụng, hai chữ duy tân chẳng khác gì hai chữ thần thánh”.  Ông ca ngợi phái này “thực cũng có can đảm đứng giữa trần ai, không bị sóng gió của thời thế cuốn đi, mà dám tự tin rằng mười lăm năm về trước hễ người nào nói được chữ duy tân là thánh nhân chi đồ; mười lăm năm về sau hễ người nào nói được chữ thủ cựu là thánh nhân chi đồ vậy”. Tuy nhiên, nhược điểm của phái duy tân này là bởi sự cực đoan: “Nhất thiết lối học cũ đều cho là hủ bại hay là nhi hí. Thậm chí có danh từ là thủ cựu quỉ để chê những kẻ nhà Nho không biết duy tân. Trong khi hô hào đó không khỏi có lời thiên lệch quá đáng, nhưng lạ gì uốn cong thì phải quá thẳng, cũng không trách gì những kẻ nhà Nho bấy giờ”. Và cái kết quả duy tân mà phái nhà Nho này nhận được có lẽ trái với mong muốn của họ: “Trong khi khuynh hướng về đường tân đó, tiếp thụ được cái tinh thần thì phần ít, cúi nhặt được cái vỏ cặn thì phần nhiều, những trò nực cười của xã hội, mới hằng ngày diễn ra, khiến cho chữ tân cũng ít có giá trị gì nữa. Trước kia vẫn tưởng phái thủ cựu là hủ bại, ngờ đâu ngày nay phái duy tân hủ bại hoặc lại có phần hơn”.Song tác giả cũng khẳng định: “Đó là cái thông tệ của thời đại cải cách mới cũ giao nhau”. Đồng thời, ông nói:“Phái nhà Nho ấy biết rằng cái thời đại tự khoảng hai mươi năm nay là đã thuộc về thời đại nghiên cứu, thời đại lo toan, thời đại vãn hồi, thời đại kiến thiết, không phải là thời đại hô hào, thời đại phá hoại như hai mươi năm về trước nữa”. Vì tình thế thời cục đã thay đổi, phái nhà Nho duy tân “nên chi phải châm chước tình thế mà thay đổi phương châm. Đối với phương diện mới thì phải để lòng suy xét, đối với tinh túy cũ thì phải hết sức bảo tồn, một bước không dám tiến liều, một lời không dám cẩu thả. Ngày trước nói duy tân, ngày nay nói thủ cựu, trước sau là một người mà chủ nghĩa không trái ngược nhau gì cả; vì như thế mới là chủ nghĩa cứu thời cứu thế, mới là con người không phụ quốc dân”. Đó là lời khuyên nhủ tâm huyết của Nguyễn Đôn Phục giành cho phái các nhà Nho duy tân thứ nhất.
2. Phái lười biếng, bạc nhược: Phái này “Tuy là danh hiệu nhà Nho, nhưng kỳ thực cũng không phải là chí khí nhà Nho. Cái thân phận các ông ấy chỉ theo phong trào của thời đại mà lên xuống. Thời đại dùng chữ Nho thì các ông ấy túa lên như mây, thời đại không dùng chữ Nho thì các ông ấy cái tinh thần chết hẳn. Hoặc là đủng đỉnh trong ngõ cúc tùng, hoặc là tiêu dao trong làng túy hương, hoặc là nằm co trong miền sơn dã, hoặc là khốn quẫn về đường y thực, như đại khái là cầm cái nghĩa yếm thế, tỏ ra bi quan; về đường đạo đức thì cũng nửa thanh nửa trọc; về đường học thuật văn chương thì dường như pháo tịt ngòi. Thậm chí hoặc có ông cho mình là lầm, học sách thánh hiền là hớ, theo đòi chữ Nho là vô ích, há chẳng nực cười thay!”. Đối với phái này tác giả tỏ ý chê bai đã rõ.
3. Phái a dua: “Phái ấy chỉ biết theo đời mà không biết vãn cứu cho đời. Phái ấy thường có cái kỹ dạng nghênh hợp phong trào, và cái tâm lý sách ẩn hành quái. Nên chi ở thời đại nào cũng cũng mở mang miệng lưỡi, vẽ vời văn chương, khác với phái nhà Nho lười biếng”. Phái này trong buổi đầu“đương lúc dân trí còn chửa khai, vạn sự còn ê trệ, phái ấy hô hào duy tân, công kích thủ cựu, ai bảo rằng không phải.” Tuy nhiên, “kịp khi cái cảnh tượng trong thời gian nó đã biến đổi, gián cách kể đã ba mươi năm, tình trạng trong xã hội ngày nay không phải như tình trạng ngày trước nữa. hai chữ duy tân đã thành hủ sáo”, thì phái này chỉ biết “hô hào với cổ động suông”, còn đối với “phần văn hóa của Đông phương, học thuyết của tiền triết, gốc nhà gốc nước, quốc hồn quốc túy của quốc dân, phái ấy có từng để ý bảo tồn vãn cứu cho quốc dân nhờ đấy không? Hay là chỉ khư khư giữ lấy cái thuyết tòng tân xả cựu là cái thuyết trần hủ ngoại 20 năm về trước?”. Và cái tội của phái này được quy kết là “a dua thời thế”, không biết tìm cách “giàng buộc tiếp nối cái dây cựu học sắp đứt”mà lại còn “toan cầm dao cắt đứt đi”, không có cái nghĩa “cứu thế, giúp dân” nữa. Có thể thấy, tác giả đã kịch liệt phê phán, công kích, vạch trần bản chất hủ bại của phái nhà Nho a dua này.
Thứ ba, trong bài viết Nhà Nho, Phạm Quỳnh đã mô tả hiện trạng và phân lớp nhà Nho Việt Nam từ khi thời thế thay đổi như sau: “Nay nhà Nho ta, từ khi thấy thời thế thay đổi, tự xét mình không đắc dụng với đời nữa, sinh ra chán nản, trước sau chỉ biết giữ một cái thái độ tiêu cực. Thảng hoặc cũng có kẻ hăng hái, không muốn cam tâm chịu tiêu cực nữa, thì lớp trước kia hô hào cải cách, rủ nhau xuất dương rồi mà sở chí sở sự không thành, kết cục đến kẻ bôn ba nơi hải ngoại, người ủ dột chốn lao lung, còn ai sống sót thì cũng là đem cái thân tàn mà ngậm ngùi với nước non bạc bẽo, nghĩ càng thêm cảm lại thêm thương; lớp sau này thời có kẻ hiểu lầm cái nghĩa tùy thời, cũng a dua theo đời mà học đòi những cách cầu danh trục lợi, không xứng đáng với cái bản sắc nhà Nho, hay cao hơn một tầng thời làm ra mặt làm ra mặt duy tân, nói năng nghị luận, nhất thiết trái hẳn với tôn chỉ nhà Nho, không sợ chủ trương xướng suất những tư tưởng học thuyết cực đoan của Âu tây, mà có lẽ tự mình cũng chưa hiểu hết tinh lý”. Trong phần bình luận này, Phạm Quỳnh đã chia nhà Nho thành hai lớp. Trong đó, lớp thứ nhất là phái nhà Nho duy tân, lớp thứ hai là phái nhà Nho a dua, một phần tương ứng với cách phân loại của Nguyễn Đôn Phục ở trên. Không chỉ dừng ở đó, phần sau của bài viết, Phạm Quỳnh đã giành dung lượng lớn để bàn về hai khái niệmđạo Nho tiểu thừa/hạ thừa và đạo Nho đại thừa/thượng thừa mà ông đưa ra. Và đi kèm với đó là hai phái nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa/ hạ thừa tức là các thầy đồ quê, còn nhà Nho đại thừa/thượng thừa tức là “nhà Nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, nhà Nho đã qua bậc “tiểu thừa” đạt tới bậc “đại thừa”. Phạm Quỳnh còn phân tích khá kỹ về hai loại nhà Nho này. Trong xã hội cũ,nhà Nho tiểu thừa có vai trò duy trì xã hội, bảo tồn danh giáo, phong hóa. Còn nhà Nho đại thừa có vai trò xướng suất, hưng khởi cái “vận mệnh tinh thần” của quốc dân. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân dấn đến sự yếu kém của học giới Việt Nam đương thời, chính là “trong khoảng nửa thế kỷ nay, nhà nho thượng thừa đã hầu như vắng tăm tích trong non sông nước Việt này”. Vấn đề này, chúng tôi sẽ trở lại ở phần sau.   
Qua một số miêu tả và nhận xét của Nam Phong tạp chí, chúng ta có thể nắm bắt được những nét khái quát, đặc tả về hiện trạng của nhà Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX trong sự khủng hoảng của học giới và xã hội. Khi đó, sự tồn vong của nhà Nho và cựu học là một vấn đề thời sự nóng, được giới trí thức cả Tân lẫn Cựu quan tâm bàn thảo.Nam Phong tạp chí bấy giờ là một diễn đàn lớn, giới trí thức có thể bày tỏ quan điểm và giải pháp của mình trước vấn đề trên. Khi đọc những bài viết liên quan trên tạp chí này, chúng ta có thể thấy trí thức Nam Phong đã rất băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: Con đường nào là lối thoát cho các nhà Nho khỏi nguy cơ diệt vong? Làm sao để có thể vãn hồi cựu học, chấn hưng học giới? Và từ đó, họ đã có nhiều nỗ lực quan tâm tìm kiếm phương án để giải quyết những vấn đề này, trên cơ sở phản tư, bình giá vai trò, ảnh hưởng của nhà Nho và Nho học xưa nay trong xã hội Việt Nam và phân tích bối cảnh, xu thế của thời đại.
2. Đề xướng cách tân Nho học: Sứ mệnh của nhà Nho trong thời đại mới
Trước khi đi vào vấn đề chính của phần này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi nét về bối cảnh của học giới Việt Nam trong cuộc khủng hoảng đầu thế kỷ XX qua lời mô tả trong một số bài viết trên Nam Phong tạp chí. Trong bài viếtPhái nhà Nho khoảng 30 năm nay đối với sự học cũ, đăng trên Nam Phong số 195, tháng 5 năm 1934, Nguyễn Đôn Phục đã có lời tổng kết quá trình giao thoa Tân – Cựu tại Việt Nam trong khoảng gần 30 năm đầu thế kỷ[12]như sau: “... Phàm sự đã canh tân, cái phong trào tân đã bành trướng, người tân thói tân, gạt đi cũng chẳng hết, ngăn đi cũng chẳng xiết. Trong khi khuynh hướng về đường tân đó, tiếp thụ được cái tinh thần thì phần ít, cúi nhặt được cái vỏ cặn thì phần nhiều, những trò nực cười của xã hội, mới hằng ngày diễn ra, khiến cho chữ tân cũng ít có giá trị gì nữa. Trước kia vẫn tưởng phái thủ cựu là hủ bại, ngờ đâu ngày nay phái duy tân hủ bại hoặc lại có phần hơn. Đó là cái thông tệ của thời đại cải cách mới cũ giao nhau”. Trong bối cảnh đó, Phạm Quỳnh trong bài viết Học phong và sĩ khí, đã thẳng thắn chỉ ra mối tệ của nền học vấn đương thời: “Từ khi bị cuốn vào trong phong trào mới, thời những cái tệ cũ đã quét sạch làu làu, nhưng những cái hay xưa cũng biến mất đi cả. Nước ta trong khoảng ba bốn mươi năm nay đã bày ra một cái tân cục diện. Nghĩ rằng học chế đã cải lương theo phép văn minh thời học phong tất phải hưng thịnh và sĩ khí tất phải phấn phát hơn xưa mới phải. Ai ngờ cái kết quả lại trái lại, là bởi cớ làm sao?.... Cái tinh thần cũ của nước nhà đã bỏ mất, mà cái tinh túy mới của thế giới cũng chưa thâu thái được, sự học chỉ quanh quẩn trong vòng sinh nhai, không vượt được khỏi cái trình độ duy lợi thiển cận”[13] Tiếp đó, Phạm Quỳnh còn mượn việc “lên núi đăng lâm” để so sánh sự học của tiền nhân và hậu nhân nhằm phê phán mạnh mẽ học giới đương thời đã quá chú trọng việc “xả cựu tòng tân”, bỏ quên cái tinh túy truyền thống của dân tộc, để rồi sau mấy chục năm, những kết quả nhận được không hay ho chi mấy: “Tiền nhân ngày xưa đã gia công gắng sức tới được một ngọn kia, tuy chưa phải là cao phong tuấn lĩnh gì, nhưng đứng đấy cũng đủ thu quát được một mảnh giang sơn của cố quốc. Nay ta chê núi nhà là thấp, ta muốn trèo núi khác cao hơn, mà trong khoảng mấy chục năm nay, vẫn còn lẹt đẹt dưới chân núi. Không những lẹt đẹt dưới chân mà tựa hồ như trong lòng đã nguội lạnh cả rồi, không còn có cái chí đăng cao viễn diểu như cổ nhân nữa, gặp được đám cỏ núi, bông hoa rừng, đã lấy làm thơm tho, mãn nguyện rồi.”[14]  Và cuối cùng Phạm Quỳnh đã phê phán gay gắt tình hình học giới đương thời bằng những lời sau: “Nhận cho kỹ được một đám cựu học chán đời, một đám tân học lấc cấc, một đám không cựu không tân, không nho không tây, dở dang lơ lửng, bấy nhiêu đám rời rạc nhau, cách biệt nhau, không có chủ nghĩa, không có thống hệ, không có kỷ cương gì cả. Cõi học thật không có cái vẻ hoạt động sầm uất một chút nào. Sánh với các nước văn minh kém đã đành, sánh với nước mình ngày xưa cũng không bằng nữa”.[15]Còn Nguyễn Đôn Phục thì nói: “Ấy về phần quốc hồn quốc túy của quốc dân đã như sắp sửa dứt rồi đấy, mà con đường văn minh lạc lợi thì còn mộng ảo ở tận đâu đâu”.[16] Và ông chỉ ra nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng trên là “vì trước kia cho lối cũ là hủ bại mà hết sức công kích đi để trau dồi lối mới cho quốc dân. Kịp quốc dân khi khi đã hấp thụ được lối mới thì lại mới quá, so với lối cũ thì hủ bại lại có phần hơn”.[17] Có thể thấy, trí thức Nam Phong cùng có chung một nhận định về nguyên nhân dẫn đến sự  suy đồi, khủng hoảng của học giới Việt Nam đương thời, là bởi sự “xả cựu tòng tân” một cách thái quá. Trong khi cái cũ đã bị thẳng tay vứt bỏ, thì cái mới vẫn chưa được gây thành, tạo nên tình trạng của một học giới nửa tây nửa ta, “dở dang lơ lửng”, chưa được định hình. Kết quả nhận được này, trái với mục đích canh tân ban đầu, thậm chí, nó còn sút kém hơn so với học vấn truyền thống trước đây. Và trong bối cảnh đó, hiện trạng của nhà Nho Việt Nam bấy giờ có thể nói rất bế tắc, nguy ngập như phần trên ta đã thấy. Cựu học đã chấm dứt cùng chế độ giáo dục khoa cử truyền thống kéo dài gần một nghìn năm. Nhà Nho không còn con đường tiến thân, mất đi địa vị chính thống trong xã hội, đối mặt với nguy cơ tiêu diệt. Các trí thức Nam Phong đã phải ngậm ngùi khi đặt ra câu hỏi rằng: “Tình thế đã đến thế, còn có thể mong vãn hồi được nữa không?”,hay“Nhà Nho có quả là bị cái số đào thải tất nhiên không? Có thật là đã đến ngày sắp tiêu diệt không?” Vì vậy, để vãn hồi tình thế, tìm kiếm một lối thoát cho nhà Nho, trí thức Nam Phong đã chủ trương phải tiến hành một cuộc cách tân Nho học, xây dựng một nền học thuật mới bắt kịp thời đại theo gương Nhật Bản và Trung Quốc. Và trong cuộc cách tân này, nhà Nho – lực lượng chủ đạo, có một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Điều này có hai nguyên nhân: Thứ nhất, nhà Nho vốn là một giai tầng trí thức có địa vị và ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Nho giáo truyền thống của Việt Nam từ trước đến nay. Nhà Nho là hạng “thượng lưu trí thức”, là bậc “thức giả xã hội” trong nước, có một chức vụ cao quý là “hướng đạo cho quốc dân”, làm “tiêu biểu cho cả nước”, cả về đường xã hội, đường chính trị, đường trí thức tinh thần, như lời Phạm Quỳnh nói. Ông còn ví “nhà Nho là một hạng thầy tu” của Khổng giáo. Song “hạng thầy tu” này khác với thầy tu của các đạo khác vì “vừa kiêm cả phần đời và phần đạo, đem đạo vị mà đằm thắm cho cuộc đời; còn thầy tu của các đạo khác, thời bỏ đời mà theo đạo, và thường cũng chỉ thiên về cái phần hình thức của đạo, là phần lễ bái mà thôi”. Nhà Nho đối với giới bình dân thì “khác nào như một lần một lót với nhau, tiên phong hậu thuẫn cho nhau, trên dưới tiếp ứng, không hề có cách trở nhau bao giờ”. Theo Phạm Quỳnh, nhà Nho đã có công lớn đối với việc duy trì, xây dựng quốc gia:“Bấy lâu vẫn làm khuôn mẫu cho quốc dân, bấy lâu vẫn duy trì cho xã hội, khiến cho nước Nam kinh qua bao nhiêu sự ngoại xâm cùng nội loạn, từng trải biết mấy lần nước đổ với nhà tan, mà vẫn sinh tồn được mãi mãi... Đã hay rằng cái công đề tạo duy trì cho quốc gia là công chung của tiên dân ta, nhưng nhà Nho là cái phần có ý thức trong quốc dân, công ấy cũng được một phần to vậy”. [18]; Thứ hai, điều này có quan hệ mật thiết đến sự tồn vong của chính nhà Nho. Nho học muốn thoát khỏi sự diệt vong, không còn cách nào khác là bản thân nó phải được cách tân hợp với thời đại. Việc cách tân Nho học đúng cách và hợp thời sẽ mở ra lối thoát cho các nhà Nho Việt Nam khỏi những bế tắc, không chỉ trong cuộc khủng hoảng này, mà sâu xa hơn là thoát ra khỏi những lưu tệ mang tính cố hữu của nhà Nho truyền thống, lột xác để vươn tới tương lai mới. Nhà Nho nếu muốn không bị đào thải, thì trong cuộc cách tân Nho học ấy, “chỉ có cái hình thức của nhà Nho là cần phải thay đổi,mà cái tinh thần nhà Nho cần phải bảo tồn lấy, vì tinh thần ấy còn thiết yếu cho sự sinh tồn của dân tộc ta” – Phạm Quỳnh nhấn mạnh. Công cuộc cách tân này được coi là “một sự nghiệp lớn lao”,song chỉ còn “chờ đợi những người sốt sắng”, đó chính là các nhà Nho. Vì vậy, trí thức Nam Phong ra sức hô hào, thức tỉnh các nhà Nho phải gạt bỏ ưu sầu, phiền muộn, nhận chân giá trị của mình, chấn hưng Nho học, bước lên vũ đài để giành lấy một chỗ đứng trong xã hội cho mình. Như Nguyễn Bá Trác đã tỏ lời tha thiết kêu gọi nhà Nho rằng: “Kể từ khi ông lão thành tiến sĩ, cô thiếu nữ tú tài, đã cải đai lau phấn đi rồi, ở trên học vụ diễn đài, nhất loạt thay vai đổi cảnh. Bọn nhà Nho ta nếu chưa có thể bước lên cho mau, chen vào cho khỏe, súy lấy một chiếu ngồi ở trong xã hội, thì dễ thường từ nay trở đi không có lối mà thò mặt lên vũ đài nữa”.[19] Họ coi đây là trách nhiệm của những bậc sỹ phu, quân tử có lòng với đời: “Phàm người quân tử liếc mắt ra cuộc đời, thấy cái hiện tượng như vậy, phải nên kíp tìm phương pháp vãn hồi”.[20]  Để động viên các nhà Nho, trí thức Nam Phong tỏ ra không hề không bi quan trước thời cuộc. Nguyễn Bá Trác nói:“Có phải là ách vận đâu? Có phải là  bi quan đâu? Những người bảo là ách vận, là bi quan, tôi đây quyết không thụ nhận”. Sự bi quan ách vận đó, chẳng qua “là tại các nhà Nho ta trống bỏi vật mình đó thôi”. Và ông vạch rõ nỗi băn khoăn của các nhà Nho ta trước sự tiêu mòn của Nho học là bởi “vì triều đình không mở khoa thi nữa, để cho được thỏa cái lòng trước điện một bài văn, dưới loa một tiếng dụ đấy thôi, chứ có phải vì thánh đạo mà băn khoăn đâu!”. Trong khi đó, ông chỉ ra, ở Nhật Bản và Trung Quốc, các nhà Hán học truyền thống đã khéo biết “bằng tạ cái học vấn cố hữu, thâm nhập cái văn minh ngoại lai”, để khuếch trương giáo dục, cải lương chính trị, sáng lập chế độ, chỉnh lý quân lữ, chấn hưng nghệ nghiệp, vì thế mà chẳng có nhà Nho nào than thở, ngao ngán về cái ách vận bi quan bao giờ. Vì có công phu điều hòa Tân Cựu, nên Nhật Bản và Trung Quốc dù rằng âu yếm duyên mớinhưng khôngđến nỗi ngậm ngùi tình xưa”.  Ông coi thời điểm này, khi vận chở cái văn minh của Thái Tây vào, để bù giúp cho cái trí thức, cái tư tưởng có sẵn của mình”, chính là thời cơ để các nhà Nho Á Đông chuyển mình. Và vì thế, ông đã giành hy vọng lớn cho tiền đồ của Hán học. Còn Phạm Quỳnh thì lưu ý các nhà Nho rằng: “Xem đó thời biết rằng thời thế bây giờ tuy không lợi cho kẻ học hành có chí, nhưng nếu quả có chí vững vàng thời cũng có thể dần dần kiểu chính lại được. Cốt là kẻ sĩ trong nước phải tự tỉnh tự giác, nhận chân cái trách nhiệm của mình là phải gây ra trong học giới một cái học phong mới, một cái sĩ khí mới”. Qua đó, Phạm Quỳnh muốn nhấn mạnh, việc gây dựng học phong mới, sĩ khí mới trong thời buổi mới, chính là sứ mệnh lớn lao của nhà Nho. Ông lạc quan khi tin rằng nhờ vào sức người, nhờ vào chí hướng mà con người có thể xoay chuyển được tình thế: “Cái hoàn cảnh ấy không phải là vĩnh viễn bất dịch; cái hoàn cảnh ấy hằng ngày biến đổi luôn, mà sức người ta có thể chuyển di được. Chỉ sợ người không có chí, nếu quả có chí vững vàng, thời sự khó đến đâu mà không thắng được”.[21]
Nền học thuật mới theo chủ trương của Nam Phong tạp chí là phải được xây dựng trên sự điều hòa, dung hợp giữa Đông và Tây, giữa “Đạo học” và “Khoa học”, để “gây lấy một nền học mới để thay vào cái Nho học cũ, cùng đề xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế và trình độ của dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới cùng cái tư trào mới ấy là tổ thuật cái tư tưởng học vấn của Thái Tây, nhất là của nước Đại Pháp, mà không quên cái quốc túy trong nước”,[22]  nhằmxây dựng một nền học thuật “đặc biệt thuần túy” của Việt Nam. Mục đích của công việc này được ví là “tiếp ngọn nọ vào gốc kia mà gây lấy một giống cây riêng cho cái vườn Nam Việt”.[23] Nguyễn Bá Trác cũng nói: “...Duy trì cái quốc túy ấy, để tiếp thu lấy cái văn minh của ngoại lai, khiến cho học giới nước ta có cảnh tượng nhật tân nhật tiến, đó cũng là một cái mục đích chính đáng của dân tộc ta ngày nay nên xu hướng vậy”.  Nguyễn Bá Trác còn dẫn dụ công cuộc Duy Tân ở Trung Quốc và Nhật Bản để minh chứng cho quan điểm của mình rằng: “Cứ cái hiện tượng học giới của hai nước láng diềng như Chi -  na, Nhật – bản mà xem ra, thì cựu học với tân học đã có cảnh tượng dung hòa hỗn hợp rồi; cho nên phàm người tinh thông hán học, tức là cái người đủ tư cách để tiếp thụ tân học...”[24] Cái “gốc”, cái “tinh túy”, hay cái “quốc hồn quốc túy”, mà Nam Phong tạp chíhay nhắc tới chính là nền Nho học truyền thống, là cội nguồn tư tưởng của Việt Nam suốt gần hai nghìn năm. Và đến nay, cội nguồn ấy đang sắp bị hủy diệt. Trí thức Nam Phong ý thức được rằng, muốn cách tân Nho học, dung hội đông tây để“gây lấy một cái đạo Nho mới thích hợp với thời thế bây giờ”, thì trước hết cần phải “nối lại sợi giây cựu học sắp đứt”, “quay lại tìm kiếm cái nguồn cội”[25] ra sức bảo tồn, phát huy những “chỗ dùng được” và gạn bỏ những nhược điểm, những chỗ không dùng được của Nho học. Có thể coi, vãn hồi hay bảo tồn là mục tiêu trước nhất trong cuộc cách tân Nho học. Nguyễn Bá Trác kêu gọi những nhân vật còn sót lại trong làng Nho là phải “trù hoạch lấy phương kế gì, tổ chức lấy công nghiệp gì, để cho có thể truyền thần loát ảnh lấy cái chân tướng Hán học, mà dành lại cho người đời sau”. Việc “truyền thần loát ảnh lấy cái chân tướng Hán học” mà Nguyễn Bá Trác đề xướng, chính là nhiệm vụ bảo tồn lấy tinh thần của Hán học. Vì nếu người nước ta không có ai biết được Hán học nữa thì thực là một sự “đại bất hạnh”, “đại khuyết điểm” vậy. Mục đích của nhiệm vụ này là “để hết cái chức trách nối kẻ trước giắt người sau, khiến cho con nhà Hán học, đối với cổ nhân mà chuộc được tội, đối với lai thế mà dựng nên công”. Ông mong muốn có ai đó có thể đứng lên xướng suất, đảm đương công việc, “dóng dả một cái chủ nghĩa bảo tồn”. Nhiệm vụ đó, theo ông, không ai gánh vác nổi ngoài những nhân vật mà ông gọi là nhà Nho hiển đạt – tức Hiển nho, vì họ sẵn có cái thế lực, cái phẩm vị trong làng Hán học. Nguyễn Bá Trác giải thích nhà Nho hiển đạt “là một phái nhờ Hán học mà đỗ lên, đầu rồng thân hổ, bia bảng vẻ vang; đến bây giờ hiện có những người rỡ mình ở trên chốn miếu đường, hoặc có người cầm quyền ở ngoài nơi quận trấn, những người đội ơn Hán học mà được phần hiển đạt ấy, có thiếu gì người”. Đối lập với Hiển nho là Hàn Nho, mà ông giải thích là lớp nhà Nho “vô quyền vô lực”,  “đối với xã hội chẳng được hưởng quyền lợi tóc tơ chút nào; nhà tranh vách đất, rầy gió mai mưa, quang cảnh buồn tênh như vậy; cái kiếp hàn nho chỉ có một vẻ ăn trí nằm nhân, cười sơn cợt thủy, ấy là xong thân thế, chứ còn toan nỗi nào?Đến như cái công nghiệp trước thư lập ngôn, túng nhiên sách sẵn ở trong bụng dễ mà có thể lôi ra phô với đời được ru?”. Họ là lớp người “gặp thời buổi bất kiến dụng, yên về cái cảnh ngộ vô quyền vô lực, không có thể tổ chức được sự nghiệp gì để mà trả được cái nợ bảo tồn Hán học cho quốc dân”. Vì vậy, Nguyễn Bá Trác đặt nhiều kỳ vọng vào lớpnhà Nho hiển đạt nói trên: “Các ông cũng thường nhận mình là bậc tiên sinh trưởng giả trong phái Hán học, vẫn có lòng thân thiết đến các hạng đệ tử trong môn phái nhà, song còn cái tiền đồ Hán học ngày nay thế nào, cái gánh vác bảo tồn Hán học, các ông còn có thể xan xẻ cho ai được không? Chắc các ông cũng đã nghĩ thấu đến nơi cả rồi” và “nối lấy cái giây Hán học sắp đứt chửa đứt này, nhóm lại cái khói tàn gio Hán, dong lên cái hoa mới đèn Nho, để làm gương cho thiên hạ hậu thế soi chung ấy, thực chỉ mong về các ngài hiển đạt ở trong làng Hán học có thế lực có phẩm vị đó thôi”. Và sự lợi ích mà phái Hiển nho nhận được từ công cuộc bảo tồn này là ở chỗ: “Một đàng đối với đồng phái có cái công phù trợ lớn lao, một đàng thì đối với nghề cựu truyền có cái nghĩa báo đền thâm thiết; chẳng quí lắm ru?”. Để  thực hiện được công cuộc trên, Nguyễn Bá Trác đề ra hai biện pháp sau:
1.     Trước thư lập ngôn, phiên dịch sách vở chữ Nho ra chữ quốc ngữ, để giúp người đời sau có tài liệu khảo cứu, theo gương Âu Tây phiên dịch kinh Phật và sách Nho; tuyển chọn trong Hán văn những câu lợi dụng cho chữ quốc ngữ rồi biên soạn thành từ điển để giúp ích cho chữ quốc ngữ; biên soạn văn chương, những điều liên quan tới luân lý, phong tục, lịch sử nước nhà và truyện ký của các nhân vật bằng chữ quốc ngữ,  Sở dĩ, Nguyễn Bá Trác đề cao chữ quốc ngữ, vì ông tiên lượng rằng chữ quốc ngữ là cái “lợi khí” của tương lai học giới nước ta, Hán học và Âu học sẽ dung hợp được là nhờ vào chữ quốc ngữ.
2. Tổ chức Hán học – duy trì hội để thu thập những nhân tài còn sót lại trong giới Hán học, kết hợp đoàn thể tổ chức cơ sở, khiến cho có thể trước thư lập ngôn mà truyền lại cho đời sau. Hội Hán học duy trì này cần nhờ tới sự giúp đỡ của Chính phủ bảo hộ.  
Đồng thời, để làm được nhiệm vụ bảo tồn Hán học, cách tân Nho học, Nguyễn Bá Trác còn đề nghị phải gạt bỏ hai mối tệ vốn tồn tại từ lâu trong phần lớn giới nhà Nho nước ta.  Thứ nhất là tệ sùng chuộng hư văn, đây là nguyên nhân khiến cho “học thuật nước ta chẳng xương minh lên được, mà quốc gia đến nỗi suy nhược dần dần”. Thứ hai là tệ tự tôn tự đại, phái Hán học “đối với cái học của mình thì “thường cho là thần thánh, mà đối với học thuật lý thuyết của người, hoặc bài bác là thiên về vật chất, mà không có tinh thần, hoặc chê bai là quá văn hoa mà khuyết mất đạo đức”. Còn bản thân thì “đọc sách cổ nhân chỉ biết làm nô lệ cổ nhân mà thôi; nghe lời trưởng giả chỉ biết làm đệ tử trưởng giả mà thôi”. Trước là bảo tồn, sau thì phải trước thư lập ngôn, phát minh lấy nghĩa lý Hán học để dẫn khởi cho hậu sinh”, đồng thời phải biết canh tân, “thay đổi cái bút hư văn, trừ bỏ cái hồn câu nệ, bắt chước lấy những cách khảo cứu, những cách phê bình ở trong học thuật cách mới ngày nay”, “biết chuyển biến đi để tùng sự về đường triết học, khoa học, pháp chính, nghệ thuật mọi đường” để xây dựng nên một sự nghiệp vẻ vang cho Hán học nước ta. Và ông khẳng định “thời kỳ Hán học súc tiếp với Âu học tức là cái cơ hội hay cho Hán học nhân thế mà dựng được một cái tân kỷ nguyên, mở được một cái tân thế giới”. Qua đó, có thể thấy lòng nhiệt thành và khát vọng cháy bỏng của tác giả đối với tiền đồ của Hán học nước ta trong bối cảnh đó.
Còn Phạm Quỳnh trong bài Nhà Nho, đã chỉ ra sự cần thiết phải có một cuộc cách tân, chấn chỉnh Nho học: “Còn như đạo Nho, thì một là đạo Nho là một đạo sai lầm, có hại cho nhân quần xã hội, như vậy thì phải kíp cải cách canh tân đi; hai là đạo Nho là một đạo chân chính, chỉ vì thiên hạ hiểu lầm nên dùng sai đó mà thôi, như vậy lại càng phải cải chính mà phát huy ra vậy”. Và như vậy, ông khẳng định“đằng nào cũng cần phải có cái công chấn chỉnh của nhà Nho, nhà Nho lại càng phải hoạt động lắm, há cứ ngồi khoanh tay mà chịu hay sao?” Ông nhấn mạnh vai trò và địa vị của nhà Nho đối với xã hội Việt nam, như trên đã nói. Song ngày nay, khi mà nhà Nho – kẻ đưa đường cho quốc dân đã“tự bỏ cái địa vị đó, bỏ cái chức trách đó, thời đối với quốc dân, đối với xã hội thành ra thế nào? Một nước đương có hạng thượng lưu hướng đạo, mà nhất đán hạng thượng lưu trụy lạc đi hẳn như vậy, thì nước ấy thành ra thế nào?”. Vì thế, “nước ấy cũng ví như một cái thân thể không có đầu, một cái khu xác không có hồn” và đó là nguyên nhân gây ra cái tình trạng khủng hoảng về tinh thần như bây giờ”. Theo phạm Quỳnh, sở dĩ Nho học cần phải cách tân, chấn chỉnh, bởi hai nguyên nhân. Thứ nhất, truyền thống Nho học của ta bộc lộ nhiều nhược điểm, có hại cho sự phát triển của học thuật, của xã hội: “Chẳng may trong mấy mươi đời, bao nhiêu những người tài tuấn trong nước đều bạc đầu về cái học tầm chương trích cú, cái học kinh nghĩa văn sách, đem hết cả tài trí mà nghiền ngấu những cái bã rác của cổ nhân, đến không còn sức đâu mà phát minh được những lẽ mới sự lạ nữa, khiến cho dân trí như bị ngưng trệ lại, không tiến hóa lên được. Nước ta sở dĩ thua kém về đường văn minh tiến bộ cũng bởi cái cách học sai lầm như thế”.[26] Và ông chỉ ra, nước ta bấy lâu nay bị cái tinh thần hạ thừa/tiểu thừa của Nho học bành trướng, lấn át, khiến cho “làm hẹp mất nghĩa đạo đi, biến một cái đạo rất hay thành một mớ phiền văn trần hủ, không khỏi ngăn trở cho sự tiến hóa chung”. Tinh thần của Nho học hạ thừa/tiểu thừa đó, chính là tâm lý hương nguyện biển hiệp, không có nghị lực, không có khí khái, làm hẹp đạo thánh hiền,“uốn  nghĩa lý của thánh hiền cho vừa bằng cái tầm nhân cách nhỏ nhen của mình”. Điều đáng sợ là khi quốc vận suy vi thì cái tâm lý hương nguyện đó “bành trướng mãi ra mà hầu như tràn ngập cả”, và không chỉ “những thầy đồ quê mắc phải cái tâm lý ác liệt đó, mà đến ông nghè ông cống cũng không khỏi; không những ông nghè ông cống, mà đến tể tướng thượng thư cũng không khỏi”. Và một khi “cả bọn thượng lưu trong nước đều đeo một cái tâm lý hương nguyện đó cả” thì hậu quả sẽ là “dân tan, nước đổ”. Chính cái tâm lý hương nguyện đó, theo Phạm Quỳnh, nó đã lấn át Nho học đại thừa/thường thừa, đã làm hại các nhà Nho, để nhà Nho chịu đeo tiếng oan mà “làm mất nước”. Vì vậy, nhà Nho cần phải hành động để tẩy rửa tiếng oan đó. Thứ hai, Phạm Quỳnh đã chỉ ra những điều hữu ích của Nho học đại thừa/thượng thừa, mà theo ông nó vẫn còn có ích cho sự phát triển của xã hội trong thời đại mới. Nho giáo đại thừa mà ông đưa ra tức là cái đạo của bậc chân nho:“Không nói về phần triết lý siêu hình, những cái thuyết âm dương thái cực có nhiều điều phù hợp với những sự phát minh tối tân của khoa học đời nay, chỉ nói về phần ứng dụng thực tiễn, về cái đạo kinh luân tế thế của nhà Nho, cũng có nhiều phương pháp kinh nghiệm, có thể bổ cho thời cơ, cứu cho thời bệnh được”. Cụ thể là gì, đó là thuyết về Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, là“giềng mối của đạo đức luân lý muôn đời”; đó là thuyết tu, tề, trị, bình, “là tiêu biểu cho một cái lý tưởng làm người rất thâm trầm và rất thiết thực”. Ông đánh giá thuyết này “vừa kiêm được cả cái chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa thế giới, không cái nào mâu thuẫn với cái nào, hết thảy đều như hiệp tác với nhau theo một cái trật tự rất là hợp với lẽ thiên nhiên vậy”. Sau đó ông đã phân tích về luận điểm này trong bài viết của mình. Ông lưu ý các nhà Nho rằng hãy “đem những phương pháp sáng sủa hợp lẽ mà nghiên cứu các nghĩa lý của cổ nhân. Sẽ thấy rằng những nghĩa lý ấy chưa phải là đã quá cũ đâu, còn có cái tiềm lực rất mạnh, có thể cảnh tỉnh được quốc dân, hoán cải được phong tục, mà bổ cứu được cái tình trạng khủng hoảng hỗn độn ngày nay”. Phạm Quỳnh đánh giá cao Nho học đại thừa rộng lớn sâu xa, luôn phù hợp với mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc:“Đạo ấy là đạo thiên cổ, loài người ta còn sinh trưởng trên mặt đất này thì đời nào nước nào cũng là thích hợp”. Vì vậy, công cuộc cách tân Nho học, khôi phục địa vị của Nho sĩ và phát huy những giá trị của họ, theo Phạm Quỳnh chính là cần phải “bãi bỏ cái Nho học tiểu thừa, mà đề xướng cái Nho học đại thừa; là phải đả phá cái tâm lý hương nguyện mà đề tỉnh cái tâm lý chân Nho; là phải đem đạo Nho ra mà hòa đồng với các phong trào tư tưởng lớn trong thế giới, chứ không thể giữ khu khu trong mấy bộ sách nát của cổ nhân; là phải làm cho cái tinh lý thắng được cái tử văn, chứ không để cho cái tử văn tiêu mất cả tinh lý; là phải đem ông Khổng ông Mạnh ra mà tiếp chuyện với các hiền triết Đông Tây, chứ không nên để trong khám thờ âm u tịch mịch”. Ông quả quyết vai trò, ý nghĩa của cuộc cách mệnh này có quan hệ đến sự sinh tồn của Nho giáo và công nghiệp của các nhà Nho: “Nho giáo có do cách mệnh một lần thì Nho giáo mới mong sinh tồn được. Nhà Nho có làm nổi cuộc cách mệnh đó thì thì nhà Nho mới có công với quốc dân, xứng đáng với cái lịch sử vẻ vang từ trước, xứng đáng với cái tiền đồ rực rỡ sau này”. Sứ mệnh của nhà Nho lúc này cần phải suy xét tinh lý ẩn hàm trong những vi ngôn đại nghĩa của thánh nhân thời cổ, rồi tìm cách để ứng dụng nó ra đời sống hiện tại, nhằm tạo dựng một “đạo Nho thích hợp với thời thế”. Như trên đã nói, Phạm Quỳnh phân chia Nho giáo thành hai loại: Nho giáo tiểu thừa/hạ thừa và Nho giáo đại thừa/thượng thừa. Và như vậy, theo ông phân tích, nhà Nho cũng có hai loại là nhà Nho tiểu thừa và nhà Nho đại thừa. Nhà Nho tiểu thừa chính là các thầy đồ, “dạy các trường quốc dân, không phải là người của nhà nước, không thuộc vào ngạch nào cả, không có lương bổng, không bị kiểm đốc” và nhà Nho đại thừa là các nhà nho khoát đạt, nhà Nho quán thông, nhà Nho bác nhã, nhà Nho cao thượng, “là những bậc bác học năng văn, triết nhân quân tử, biết vượt ra ngoài những câu tử văn trong sách cổ mà đạt cho tới cái chí đạo của Thánh hiền”, cũng tức là “các nhà Nho đã qua bậc Tiểu thừa tới bậc Đại thừa”. Cả nhà Nho Tiểu thừa và Đại thừa đều có vai trò, trách nhiệm riêng. Nhà Nho Tiểu thừa, tức các thầy đồ, có công lao “duy trì cho xã hội, tiêu biểu cho danh giáo, hộ vệ cho phong hóa”; bảo chướng để “gìn giữ cho được yên ổn, phòng ngự cho khỏi họa loạn”. Thầy đồ được Phạm Quỳnh ví là những “mục sư truyền đạo” của Khổng giáo. Còn nhà Nho Đại thừa thì có công xướng suất, hưng khởi, hướng đạo, dẫn dắt quốc dân, phát huy tinh thần Thượng thừa trong cái chí đạo của Nho giáo. Nhà Nho Hạ thừa có trách nhiệm di truyền, nhà Nho Thượng thừa có trách nhiệm tiến hóa Thánh đạo.Tuy nhiên, trong cuộc cánh mệnh Nho học mà Phạm Quỳnh đề xướng, các nhà Nho Tiểu thừa cần phải gạt bỏ tâm lý thầy đồ, tức là tâm lý lễ nhượng cẩn thủ, trọng về hình thức phép tắc bề ngoài, và đó chính là tâm lý hương nguyện, mang tính chất“nhân tuần cẩu thả, hư sức ngụy biện”, có nhiều tác hại lớn.Phạm Quỳnh cho rằng, sự nghiệp của các thầy đồ đến đây chưa hẳn đã cùng tận, nếu họ biết trừ bỏ tâm lý hương nguyện ấy đi, thì vẫn có thể đương được cái chức trách vừa làm giáo sư, vừa làm linh mục cho quốc dân. Còn nhà Nho Thượng thừa thì không nên “làm sai thiên chức của mình, là làm kẻ hướng đạo cho quốc dân, mà phụng sự tuyên truyền một cái đạo Nho rộng rãi, hợp với cái tôn chỉ thượng thừa của Khổng Mạnh”. Ông nhắn gửi các nhà Nho rằng: “Đương lúc thanh hoàng quá độ này, văn hóa cũ đã tàn, văn hóa mới chưa thịnh, chính là buổi điều hòa dung hợp, nhà Nho lại càng phải nên gắng gỏi lắm, chứ không nên chỉ giữ cái thái độ tiêu cực, đối với vận mệnh nước nhà lãnh đạm như khách bàng quan”. Có thể thấy, sứ mệnh của nhà Nho là phải tham gia vào cuộc cách tân, chấn chỉnh Nho học, khôi phục lại học phong và sĩ khí, xây dựng nền nền học thuật mới có sự kết hợp hài hòa giữa Đạo học (tức học thuật truyền thống phương Đông) và Khoa học (tức khoa học hiện đại Phương Tây) theo quan niệm của Lương Khải Siêu. Và cuối cùng, trong bài viết Học phong và sĩ khí,  Phạm Quỳnh có viết: “[Kẻ sĩ] có được cái chí thâm thiết muốn bảo chủng ái quốc, tồn học”, “có được cái khí mạnh mẽ như lời tiền hiền đã nói: “phú quí không dâm được, bần tiện không di được, uy vũ không khuất được” và lại “thêm được cái kiến văn tri thức một người sống ở cái thế kỷ phiền phức thứ hai mươi này”, có được ba điều đó thì mới  “xứng đáng là một kẻ sĩ hoàn toàn đời bây giờ”. Ta có thể coi đây là một mô hình nhà Nho lý tưởng của thời đại mới mà Phạm Quỳnh đưa ra dựa trên sự cân nhắc từ nhiều phương diện và gửi gắm không ít kỳ vọng.
Bằng con mắt khách quan, có thể thấy, trong bối cảnh khủng hoảng của học giới Việt Nam đầu thế kỷ XX, việcNam Phong tạp chí chủ trương xây dựng một nền học thuật điều hòa Đông Tây, lấy Nho học truyền thống làm bản vị kết hợp với văn minh Tây phương là một chủ trương thích trung và hợp thời. Dựa trên việc suy xét hiện trạng và đánh giá vai trò của tầng lớp nhà Nho, trí thức Nam Phong đã rất nỗ lực để nhằm tìm ra giải pháp khắc phục tình thế cho các nhà Nho (có cả một vài người trong số họ). Và họ đã nhận ra và hết sức động viên, kêu gọi các nhà Nho hãy chủ động thông qua con đường cách tân Nho học theo gương Nhật Bản, Trung Quốc, để vãn hồi Thánh đạo, xây dựng một nền học thuật mới, đưa bản thân thoát khỏi cuộc bế tắc, bắt kịp xu thế thời đại. Trước một vấn đề thời sự mang tính tồn vong của số phận Nho giáo và nhà Nho, tôn chỉ và lập trường của trí thức Nam Phong có nhiều điểm tiến bộ, tích cực, thể hiện một tầm nhìn xa rộng. Dù lịch sử đã diễn ra không như những gì mong đợi, song cho đến nay, chúng ta vẫn thấy được bầu nhiệt huyết của các trí thức Nam Phong giành cho học thuật nước nhà, và có lẽ ít nhiều những gì họ đã làm vẫn còn mang những giá trị nhất định.

[2]Thóc cũ đã hết, thóc mới còn xanh, chỉ buổi giao thời, tân cựu giao thoa.
[3]Trúc Hà, Nhà Nho có lẽ chịu sầu?, Nam Phong tạp chí, số 130, tháng 6 năm 1928, tr. 561.
[4]Nguyên tác Hán văn, bản quốc ngữ do Tú tài Nguyễn Đôn Phục dịch và đăng trên Nam Phong tạp chí  số 51, tháng 9 năm 1921, tr. 189.
[5]Nguyễn Bá Trác, sđd, tr. 189.
[6]Nguyễn Bá Trác, sđd, tr. 194.
[7]Phạm Quỳnh, Nhà Nho, Nam Phong tạp chí, số 172, tháng 5 năm 172, tr. 449.
[8]Nguyễn Bá Trác, sđd, tr. 192, 198
[9]Trúc Hà, sđd, tr.561.
[10]Nguyễn Đôn Phục, Phái nhà Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ, Nam Phong tạp chí, số 195, tháng 5 năm 1934, tr. 285.
[11]Trúc Hà, sđd, tr.568.
[12]Tức là tính từ năm 1906 (Thành Thái 18)  khi chương trình Giáo dục Khoa cử cải lương được nhà nước Bảo hộ tiến hành đến năm 1934, thời điểm tác giả viết bài.
[13]Nam Phong tạp chí, số 79, tháng 1 năm 1924, tr. 1
[14]Phạm Quỳnh, Học phong và sĩ khí, Nam Phong tạp chí, số 79, tháng 1 năm 1924,tr. 5.
[15]Phạm Quỳnh, Học phong và sĩ khí , tr. 4.
[16]Nguyễn Đôn Phục, sđd, tr. 285.
[17]Nguyễn Đôn Phục, sđd, tr. 289.
[18]Phạm quỳnh, Nhà Nho, tr. 451.
[19]Nguyễn Bá Trác, sđd, tr. 189.
[20]Nguyễn Đôn Phục, sđd, tr. 289.
[21]Phạm Quỳnh, Học phong và sĩ khí, sđd, tr. 4.
[22]Phạm Quỳnh, Mấy nhời nói đầu, Nam Phong tạp chí, số 1, tháng 7, năm 1917, tr. 5.
[23]Phạm Quỳnh, Mấy nhời nói đầu, Nam Phong tạp chí, số 1, tháng 7, năm 1917, tr. 4.
[24]Nguyễn Bá Trác, Mấy lời trung cáo với các bạn nhà Nho, Nguyễn Đôn Phục dịch, Nam Phong tạp chí  số 51, tháng 9 năm 1921, tr. 191.
[25]Trúc Hà, sđd, tr. 567.
[26]Phạm Quỳnh, Học phong và sĩ khí, Nam Phong tạp chí, số 79, tháng 1 năm 1924, tr. 2. 
 --
Tác giả: Lê Phương Duy
Nguồn: vanhoanghean.com.vn