Khiemnguyen

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội

Page 2

Page 3
Page 4
End
Sau một thời gian free public, với gần 1000 lượt truy cập, theo yêu cầu của Moder, chúng tôi quyết định chuyển text files sang thành Imagine file, ai có nhu cầu sử dụng files text, xin liên hệ nguyenbuikhiem@gmail.com

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Sự thật là gì? chẳng là gì cả


Có một điển tích về sự thật thế này! Thầy trò Khổng Tử bị đói lâu ngày ở đất Trần Thái. Hôm ấy Nhan Uyên kiếm đâu được một nhúm gạo, bèn vội vã thổi cơm. Do sốt ruột và có thể đói quá nên lúc lúc lại mở vung thăm cơm chín hay chưa, tro bếp rơi vào bèn nhúp lấy mà ăn. Khổng Tử từ xa thấy học trò nhúp cơm ăn, than rằng: “Đến Nhan Uyên khi đói cũng ăn vụng ư!”. Rồi bày kế thử trò: “Con người hễ lâu không ăn cơm, khi có cơm ăn thì phải cúng thần linh”. Nhan Uyên nghe vậy vội xua tay: “Không, không được thưa thầy. Lúc nãy thấy tro rơi vào cơm, con nhúp ra định bỏ đi. Nhưng bỏ thì tiếc, nên đã ăn, như thế cơm này có người đã ăn rồi, không thể mang cúng thần linh được". Khổng Tử giật mình, ngộ ra: “Cái chính mắt ta nhìn thấy mà chưa phải sự thật, hiểu con người khó thay!.


Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Tập đoàn kinh tế là thế nào?


Biết thế nào các TS, ThS tương lai cũng mò vào đây để cá chép làm tiểu luận, Solitary post sẵn cái này lên đây, ngõ hầu đi tắt đón đầu hầu các cụ, lưu ý là đừng bao giờ coppy tất cả nhé, không dễ vi phạm luật bản quyền…
Mô hình Tập đoàn kinh tế xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng đầu thế kỷ thứ 19 tại một số nước Tây Âu trong giai đoạn công nghiệp hóa phát triển bùng nổ.
Nguyên nhân chính của sự xuất hiện này là một số sản phẩm hay ngành kinh tế tự nó mang tính chất độc quyền rất cao, nếu để nằm trong khu vực tư nhân mà mục đích hàng đầu của nó là lợi nhuận sẽ có nguy cơ dẫn tới những chiều hướng phát triển thiên lệch có hại cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế cả nước, đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh của cả nước với các nước chung quanh. Vì những lẽ này, các thế lực kinh tế và chính trị của những quốc gia này - thể hiện tập trung trong vai trò Nhà nước - đã đi tới quyết định thành lập các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, tập trung vào các ngành cung cấp than, điện, hàng không, bưu chính viễn thông, một số sản phẩm trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng khác như cung cấp nước, giao thông vận tải thủy và bộ (ví dụ đường sắt)... Ngoài ra một số đòi hỏi nhất định về an ninh và quốc phòng khiến cho Nhà nước cần trực tiếp nắm lấy, ví dụ ngành hàng không, ngành bưu chính viễn thông... Thực tế vừa trình bày cho thấy ngay tính đặc thù của mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, thể hiện trong 3 chức năng chính của nó:
1). Chống nguy cơ độc quyền tư nhân đối với những sản phẩm kinh tế cần thiết cho sự phát triển chung kinh tế cả nước;
2). Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cả nước đối với các quốc gia khác trên thị trường thế giới;
3). Đáp ứng những yêu cầu có liên quan mật thiết đến an ninh và quốc phòng.
Giai đoạn thứ hai, cũng chủ yếu ở các nước Tây Âu (không có bọn này không hiểu kinh tế thế giới sẽ đi đến đâu phỏng các cụ?), trong thời kỳ tái thiết và phát triển kinh tế sau chiến tranh thế giới II, với các yếu tố chi phối mới: Những đòi hỏi cấp bách của tái thiết sau chiến tranh, sự phát triển bùng nổ của công nghệ mới, việc chuyển từ năng lượng than là chủ yếu sang năng lượng dầu được cung ứng từ bên ngoài.
Trong giai đoạn này, các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước tăng nhiều về số lượng, nhưng chủ yếu vẫn giữ nguyên 3 chức năng như đã nêu trên, mở rộng vào các lĩnh vực như dầu khí, viễn thông, công nghệ tin học, bảo hiểm, bất động sản…
Cả trong hai giai đoạn, các tập đoàn này trước sau vẫn có 4 tiêu chí hay đặc tính:
- Chịu sự quản lý theo luật pháp (nhiều khi luật hay chính sách do chính các ông chủ tập đoàn lập nên).
- Hoạt động trong thể chế tài chính công khai minh bạch (đây chỉ là ước mơ thôi)
- Có thể huy động vốn từ khu vực tư nhân hoặc khu vực công dưới dạng bán trái phiếu hay cổ phần theo những quy định chặt chẽ của luật pháp và của thể chế tài chính quốc gia;
- Phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và thế giới (cái này cũng chỉ là ước mơ thôi).
Sự phát triển bột phá của công nghệ và khoa học kỹ thuật và quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trong các thập kỷ 1960 - 1980 đã mang lại 2 hệ quả:
- Khả năng cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước ngày càng giảm sút so với khu vực kinh tế tư nhân và nhìn chung tính hiệu quả của chúng đối với toàn bộ nền kinh tế ngày càng thấp, ngày càng trở thành hiệu quả âm tới mức cản trở sự phát triển của nền kinh tế;
- Sự phát triển năng động của công nghệ và dịch vụ thời kỳ đi vào kinh tế trí thức và toàn cầu hóa cho phép chuyển ngày càng nhiều sản phẩm kinh tế và dịch vụ vào khu vực tư nhân.
Tình hình trên đã khiến cho các quốc gia Tây Âu phải loại bỏ phần lớn các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Nói một cách khác, trong bối cảnh kinh tế mới và quá trình toàn cầu hóa sâu rộng, mô hình tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước ngày càng trở nên lỗi thời.
Như vậy, toàn bộ lịch sử phát triển các tập đoàn kinh thế thuộc sở hữu nhà nước tại các nước công nghiệp phát triển cho thấy nó chỉ có vai trò nhất định vào những thời điểm và hoàn cảnh lịch sử cụ thể đòi hỏi cần tạo lập một sự độc quyền nhà nước nhất định để đảm bảo sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế cả nước trong bối cảnh ấy. Nhưng một khi bối cảnh phát triển như vậy qua đi, đặc biệt từ thập kỷ 1980s đến nay, các nhược điểm cố hữu của nhóm tập đoàn này xuất phát từ tính chất quyền sở hữu của Nhà nước ngày càng trở nên khó khắc phục, và tới một thời điểm nhất định là trở thành trở ngại kìm hãm sự phát triển./.

10 ảnh hưởng tiêu cực của truyền thông (phần 1)


Các phương tiện truyền thông ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của chúng ta? Liệu nó có ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của chúng ta? Những ảnh hưởng tiêu cực của các phương tiện truyền thông là gì? Bạn có thể tìm ra câu trả lời nếu cố gắng đọc và hiểu tài liệu này của chúng tôi.

Bạn muốn bắt chước một chuỗi hành động chỉ vì nhân vật hành động yêu thích của bạn đã làm việc đó. Bạn muốn mặc hàng nhãn hiệu LBD chỉ vì bạn là một fan hâm mộ của Coco Chanel; bạn muốn chơi môn thể thao hoặc để kiểu tóc của các diễn viên yêu thích của bạn… Bạn muốn làm tất cả mọi thứ mà mọi người từ thế giới quyến rũ, bạn muốn được giống như người nổi tiếng yêu thích của bạn. Ngay cả khi bạn muốn có mặt trong các trang tin tức.  Và bây giờ bạn nói rằng phương tiện truyền thông không ảnh hưởng đến bạn! Oh, có đúng là như vậy không? chắc chắn là không! Thông tin đại chúng không ảnh hưởng đến cách mà chúng đề cập và biểu đạt. Nó ảnh hưởng đến hành vi của mỗi người theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Các tác động tích cực chắc chắn tổ chức bởi một và tất cả. Tuy nhiên, tác động tiêu cực là không có lợi cho một xã hội lành mạnh. Ở đây, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu phương tiện truyền thông ảnh hưởng tiêu cực đến chúng ta như thế nào? 

Mười ảnh hưởng tiêu cực của phương tiện truyền thông

1. Giả mù: khi bạn cố gắng để bắt chước các mô hình vai trò của bạn từ các ngành công nghiệp quyến rũ, bạn cho một ý nghĩ cho dù bạn đang làm đúng hay sai? Nó thường được coi là trẻ em gái và con trai bắt chước những người nổi tiếng một cách mù quáng. Tác động của phương tiện truyền thông là như vậy là sai lầm, gây tranh cãi. Đôi khi, những điều nhỏ được làm to, cho nên đã thay đổi cách cảm nhận của khán giả. Phương tiện truyền thông làm nổi bật tranh cãi và vụ bê bối trong cuộc sống của người nổi tiếng. Quần chúng rơi cho điều này là trong những tin tức và cuối cùng bắt chước những người nổi tiếng mà không cần suy nghĩ nhiều. Những người ở độ tuổi dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên được đánh giá cao ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì được đặt trước mặt họ một cách vô thức. Ở tuổi đó, họ bị hấp dẫn bất cứ điều gì hào nhoáng và bất cứ điều gì có thể làm cho tin tức.

2. Tin sai: tiêu cực trong xã hội được đánh dấu với mục đích thức tỉnh của người dân về họ. Ví dụ, các tác động tiêu cực của nghiện được miêu tả thông qua quảng cáo. Báo chí, truyền hình và Internet được sử dụng để truyền tải thông điệp xã hội. Nhưng tiếc là đôi khi, tin nhắn được hiểu sai. “Thức tỉnh” không đến được tất cả mọi người hoặc nó đạt đến khối lượng một cách sai lầm. Vì vậy, có một phần tích cực ảnh hưởng bởi các phương tiện truyền thông trong khi có những người khác đi thông điệp sai lầm từ nó. Phương tiện truyền thông ảnh hưởng tiêu cực. Những gì được hiển thị với một mục đích truyền bá một thông điệp "kết thúc lên trở thành một bắn phá của cái xấu, xấu xí. Xấu và không được chú ý. Mô tả cái xấu có tác động tiêu cực vào trẻ em không trưởng thành, đủ để giải thích những gì họ đang được hiển thị. Nó không chỉ là phương tiện truyền thông sẽ bị buộc tội trong trường hợp này. Phụ huynh và giáo viên có một vai trò lớn để chơi trong việc lựa chọn những gì trẻ sẽ thấy và những gì họ không nên.

3. Tiêu cực: trong một số phạm vi, phương tiện truyền thông có “trách nhiệm” tạo ra các cảm xúc tiêu cực trong số những người tiếp xúc với nó. Một tiếp xúc sớm để bộ phim đậm hoặc bạo lực, cuốn sách xuất bản nội dung dành cho người lớn và tin tức vai xấu xí thực hành xã hội có tác động sâu vào tâm trí trẻ. Nếu trẻ em được ném bom với các trình tự chiến đấu, công việc diễn viên đóng thế, giới tính và những cảnh hãm hiếp, tự tử và giết người thông qua cuốn sách hay phim ảnh, họ đang bị ràng buộc để lại một vết sẹo trên các tâm trí ấn tượng. Và không chỉ trẻ em, khó chịu có thể ảnh hưởng đến tâm trí của một người lớn. Người lớn có thể có sự trưởng thành để phân biệt giữa tốt và xấu, nhưng bắn phá chỉ xấu có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai ít nhất là ở mức độ tiềm thức. Bạn chưa có kinh nghiệm của một giấc mơ xấu sau khi xem một bộ phim bạo lực?Hoặc tưởng tượng một cái gì đó đáng sợ xảy ra với bạn sau khi xem một bộ phim kinh dị? Hoặc một nỗi sợ hãi bất ngờ nắm chặt tâm trí của bạn sau khi đọc về một vụ giết người trong thành phố của bạn? Thực tế nên được mô tả nhưng không vì thế mà có thể cho rằng nó sẽ có tác động lâu dài trong tâm trí của người dân. 

4. Lối sống không lành mạnh:  Truyền thông được tổ chức chịu trách nhiệm cho sự thay đổi trong thói quen ăn uống của thanh thiếu niên và lối sống không lành mạnh mà họ đang áp dụng. Bạn hỏi tôi tại sao? Vâng, bởi vì có những quảng cáo thực phẩm rác ở khắp mọi nơi. Có không có quảng cáo một trong những lợi ích của việc ăn trái cây tươi mỗi ngày, uống thúc đẩy không ai 8 ly nước mỗi ngày. Những lợi ích của một chế độ ăn uống cân bằng không được thổi phồng bất cứ nơi nào. Phương tiện truyền thông phơi bày quần chúng với các sản phẩm thức ăn nhanh, thực phẩm đóng hộp, chế độ ăn mốt và đồ uống năng lượng. Điều này đang dẫn đầu các thanh thiếu niên thông qua thói quen ăn uống không lành mạnh. Không ai tuyên truyền tầm quan trọng của tập thể dục để giữ cho phù hợp. Nhưng có những quảng cáo của thiết bị tập thể dục đắt tiền và trọng lượng và các chương trình mất chất béo. Xem TV hoặc duyệt web cuối đêm làm hư thói quen ngủ của nhiều người. 

5. Thông tin quá tải: Các phương tiện truyền thông tự nó là gây nghiện một khi dán mắt vào nó, bạn có xu hướng quên đi tất cả mọi thứ khác. Khi bạn không xem TV, bạn đang lướt Internet, khi bạn không ở trên web, bạn đang đọc báo, khi bạn không đọc bất cứ điều gì, bạn đang nghe một cái gì đó. Như vậy, tất cả các thời gian, bạn đang dán mắt vào một số hình thức của phương tiện truyền thông. Nó được bắn phá bạn với tin tức, nội dung, thông tin, tin đồn, tin đồn - nó được phơi bày bạn tất cả những gì nó có, một số điều cần thiết, một số không; một số điều quan trọng, một số không, một số những điều bạn muốn bỏ qua, một số những điều bạn có thể không. Phương tiện truyền thông là ở khắp mọi nơi, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống.
Contact please: nguyenbuikhiem@gmail.com

10 ảnh hưởng tiêu cực của truyền thông (phần 2)


6. Nghiện phương tiện truyền thông: Các tác động tiêu cực của các phương tiện truyền thông về trẻ em được thể hiện trong các thiết lập tinh thần của họ thay đổi và chất lượng suy giảm của lối sống của họ. Trẻ em nên đầu tư nhiều thời gian hơn đọc cuốn sách tốt, học tập, vui chơi ngoài trời và tập thể dục. Do các phương tiện truyền thông lôi cuốn, hầu hết thời gian của họ được chi dán mắt vào truyền hình, đọc tin đồn người nổi tiếng, nghe một cái gì đó giật gân hoặc lang thang không mục đích trên Internet.Với một thế giới của thông tin và giải trí chờ đợi ở phía bên kia của một màn hình máy tính hoặc TV, nó không tự nhiên đối với bất cứ ai bỏ ra hàng giờ khám phá nó, nó gây nghiện. Điều này ảnh hưởng đến trẻ em và thanh thiếu niên nhiều nhất khi chúng được tiếp xúc với những thứ họ có thể giải thích sai hoặc có thể thậm chí không hiểu ở tuổi đó. 

7. Tự hận thù: Phụ nữ với cơ thể nhỏ nhắn và trẻ em gái với một hình búp bê barbie luôn luôn thể hiện là phổ biến hơn hoặc hấp dẫn trong khi thừa cân được mô tả như là ít phổ biến hơn, có những người bạn ít hơn và bị bắt nạt. Điều này dẫn đến một khái niệm mà mỏng gợi cảm và chất béo là không. Khi điều này hiểu thấu suy nghĩ trong tâm trí của trẻ, họ có chế độ ăn mốt hoặc chuyển sang phẫu thuật thẩm mỹ để nhận được rằng cơ thể gọi là hoàn hảo. Các cơn sốt cho các mô hình hoặc diễn viên và nữ diễn viên, làm cho thanh thiếu niên muốn cơ quan và các tính năng khuôn mặt giống như họ. Để có được thoát khỏi một chiếc mũi to hoặc để có được đôi môi pouty những người lớn, thanh thiếu niên đã sẵn sàng đi theo con dao. 

8. Vấn đề sức khỏe: Truyền thông có tác động tiêu cực về thể chất và tâm lý của xã hội. Dân chi tiêu giờ ở phía trước của truyền hình hay lướt mắt kinh nghiệm các vấn đề Internet. Thiếu hoạt động thể chất dẫn đến vấn đề béo phì. Phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến dư luận và ảnh hưởng đến các lựa chọn mà người ta làm. Các phương tiện truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong vai mỏng đẹp và chất béo là xấu xí. Nó đã dẫn đến một ý kiến ​​chung là số không kích thước là trong điều và chất béo và mũm mĩm ra. Điều này làm cho cảm thấy thừa cân ra khỏi vị trí. Họ sẵn sàng nhịn ăn để giảm cân. Điều này có thể và đã dẫn đến trường hợp ngày càng tăng của chứng biếng ăn. Một phức cảm tự ti và tự tin hạ xuống trong những người có cơ quan không hoàn hảo có thể dẫn đến rối loạn ăn uống. Trong một cuộc khảo sát được thực hiện trên các học sinh lớp 5 bởi Viện nghiên cứu quốc gia về Truyền thông và Gia đình, nó đã được tìm thấy rằng trẻ em đã trở thành không hài lòng với cơ thể của họ sau khi xem một đoạn video của một nghệ sĩ rất phổ biến nhất định và một cảnh nhất định từ một chương trình truyền hình phổ biến (tên bỏ qua trên mục đích).

9. Thay đổi sự nhìn nhận với thế giới: Các phương tiện truyền thông, trong cách riêng của mình, thay đổi triển vọng của người dân đối với cuộc sống. Phương tiện truyền thông là giao diện mà qua đó hàng triệu người nhìn vào thế giới bên ngoài. Phương tiện truyền thông tuyên bố miêu tả ngày hôm nay, nhưng không phải tất cả các loại phương tiện truyền thông cho thấy chỉ có sự thật. Với mục đích nhấn mạnh quan điểm của họ hoặc để lấy sự chú ý lớn hơn từ khối lượng, phương tiện truyền thông hypes hoặc thổi phồng những điều đến một mức độ nhất định. Không phải tất cả mọi người có thể để lọc các yếu tố đó. Hầu hết tin rằng tất cả mọi thứ để thực sự, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên.

10. Lẫn lộn ảo và thực: Ma cà rồng, người sói, phù thủy, ma quỷ - họ đến từ đâu? Nàng tiên, siêu nhân, thiên thần - nơi mà họ đã đến từ? Nó không phải là phương tiện truyền thông chỉ được đổ lỗi cho, như những nhân vật này thuộc về văn học dân gian. Nhưng phương tiện truyền thông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền các ký tự này và làm cho họ như là có thật. Không có những câu chuyện ma và ma cà rồng mà phương tiện truyền thông tuyên bố là thực? Các ký tự nhập vào thế giới của chúng tôi thông qua sách và phim ảnh. Không thể phủ nhận giá trị giải trí của họ hoặc thương giải trí. Nhưng không phải là quá nhiều một cách mù quáng tin rằng chúng tồn tại? Sự viễn tưởng cho vui chỉ đến sự phân biệt giữa thực tế và hư cấu là rõ ràng. Các tiện giải trí cuộn chỉ cho đến khi sự khác biệt của nó từ thực tế được hiểu rõ. Khi hai thế giới hỗn hợp, cuộc sống trở nên khó khăn. 

                                                                   Contact please: nguyenbuikhiem@gmail.com

Tờ báo Xuân đầu tiên của báo chí Việt Nam

Lang thang trên mạng, tìm thấy cái này hay hay, cá chép về đây để mọi người quan tâm đọc mà biết thêm về lịch sử báo chí nước mình....



Theo sách Báo chí Việt Nam - những sự kiện đầu tiên và nhất (1) thì tờ báo đầu tiên có ra số xuân là Nam Phong tạp chí, số xuân Mậu Ngọ - năm 1918.

Có ý kiến cho rằng tờ báo đầu tiên trong làng báo Việt Nam có ra số đặc biệt kỷ niệm xuân là tờ Phụ Nữ Tân Vănxuân Canh Ngọ, ra năm 1930. Lý do của những người tìm kiếm tờ báo xuân đầu tiên mà bỏ qua tờ Nam Phong tạp chí là vì cho rằng đến nay không ai còn thấy tờ báo xuân ấy nữa.

Ngay cả trong tập sách Báo chí Việt Nam - những sự kiện đầu tiên và nhất (NXB Trẻ tổ chức bản thảo và xuất bản tháng 6-2006), nhóm các tác giả sở dĩ xác định Nam Phong tạp chí là tờ báo đầu tiên có tổ chức làm báo xuân như một số đặc biệt kỷ niệm một dịp đặc biệt là do dựa vào một câu của Vương Hồng Sển trong quyển Thú chơi sách: "Nam Phong có cả thảy hai trăm mười một cuốn vì tết 1918 có cho ra một tập riêng, toàn thơ văn có giá trị và nếu không lầm, tập ấy là thủy tổ các số báo xuân, báo tân niên, báo đặc biệt vậy".

Dựa theo đó, các tác giả sách Báo chí Việt Nam - những sự kiện đầu tiên và nhất khẳng định: "Đây được xem là tờ xuân đầu tiên của làng báo Việt Nam". Bên cạnh đó, các tác giả sách còn kể thêm tờ báo xuân thứ hai là Đông Pháp thời báo năm 1928, Thần Chung xuân Kỷ Tỵ 1929, Phụ Nữ Tân Văn xuân Canh Ngọ 1930, Công Luận xuân Tân Mùi 1931...

Như vậy, thứ tự ai trước ai sau trong số các tờ báo xuân đầu tiên trong làng báo Việt Nam đã được xác định rõ ràng. Theo cái sự "nếu không lầm" của cụ Vương Hồng Sển thì Nam Phong ra số xuân đầu tiên vào năm 1918, và theo thứ tự ấy thì Phụ Nữ Tân Văn xếp hàng thứ 4, ra số xuân năm 1930, đứng sau các sự kiện làm báo xuân củaNam Phong tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, và cách số xuân của Nam Phong tạp chí những 12 năm.

Lý do "không ai còn thấy tờ Nam Phong tạp chí xuân 1918" của giới nghiên cứu là có thể chia sẻ. Ngay cả đến năm 2006, nhóm các tác giả sách Báo chí Việt Nam - những sự kiện đầu tiên và nhất cũng chỉ có cứ liệu từ cụ Vương Hồng Sển, chứ phần xác định tờ báo xuân đầu tiên sách này cũng không in hình số xuân đang bàn củaNam Phong tạp chí năm 1918.

Nhưng cho đến nay, khi học giới trong và ngoài nước đã lần lượt số hóa các bộ báo cũ và quan trọng thì việc tìm kiếm và hệ thống lại các số Nam Phong tạp chí cũng nằm trong không khí này. Nay, chúng tôi xin giới thiệu và khảo tả sơ nét về bản chụp bìa số xuân đầu tiên của Nam Phong tạp chí, các bài viết đầu tiên của Phạm Quỳnh và tòa soạn Nam Phong.

Toàn bộ số xuân Nam Phong tạp chí có 126 trang, bìa màu có vẽ hình hai ông Thọ cầm biển Đinh Tỵ và Mậu Ngọ chào nhau. Bài đầu tiên ký Nam Phong, có tựa là "Kính chúc hoàng thượng và quan toàn quyền", cuối bài có câu "Đại Nam Khải Định hoàng đế vạn tuế". Bài tiếp theo ký tên Phạm Quỳnh, có nêu lý do của việc Nam Phong quyết định ra số xuân. Đó là vì Nam Phong bấy lâu phê phán lối hư văn, chủ trương lập ngôn "thiên trọng sự thực hơn là sự phiếm", nên không chú ý đến "lối văn chương tiêu khiển".

Nay Phạm Quỳnh cho rằng "nhưng cái thái độ nghiêm khắc tuy ngày thường là phải, mà gặp những thời tiết vui vẻ, như hội tân xuân này, đối với cảnh, đối với người, đối với lòng hoan hỉ của mấy triệu quốc dân, tựa như gẩy khúc đàn sai dịp (2) vậy".

Sau đó, Phạm Quỳnh nói cụ thể hơn: "Bản báo muốn cho khúc đàn riêng của mình không đến nỗi sai dịp với khúc đàn chung của xã hội trong buổi đầu năm xuân mới, giời ấm khí hòa, cảnh vật tươi cười, lòng người hớn hở, lại muốn không trái cái chủ nghĩa lúc bình thường, bèn định in riêng ra tập ngày tết này, ngoài những số báo thường, trước là để cùng quốc dân góp một phần vào cuộc vui chung, sau là để tặng các bạn đọc báo đã có bụng tin yêu gửi mua từ đầu đến nay một cái quà hợp với cảnh năm mới".

Sau bài của Phạm Quỳnh dài hai trang là bài của tòa soạn Nam Phong dài bốn trang, cũng nhân không khí báo xuân nhắc lại phận sự làm dân trong một nước sao cho tiến bộ...

Như vậy, số xuân của Nam Phong tạp chí đúng là số đặc biệt, ra riêng số tết năm 1918, số tết này nằm giữa số 8 (tháng 2-1918) và số 9 (tháng 3-1918). Về nội dung thì chủ trương nói chuyện vui vẻ, khác phong cách thường ngày của tờ tạp chí chuyên bàn những chuyện nghiêm túc.
(coppied from internet)

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Mấy câu thơ buồn




"Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt
Buồn gieo theo bóng lá đong đưa
Bên thềm ai nấn lòng tôi rộng
Cho trải mênh mông buồn xế trưa".





Chẳng biết thơ của ai...

Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

Tôn trọng công chúng báo chí như thế nào?


Cảo thơm lần giở… đọc lại những bài bài báo của các bậc tiền bối cách đây hơn 90 năm mới thấy, các cụ đã có cách nhìn nhận, đánh giá rất cụ thể với quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa báo chí và người đọc báo. Xin trân trọng giới thiệu:



CÁI CÁCH QUÝ TRỌNG ĐỘC GIẢ CỦA TỜ BÁO NỌ

Giả sử bọn xẩm mà có thể viết báo, tất nhiên họ cũng biết tờ báo phải quý trọng độc giả.
Bởi vì nếu không có độc giả thì báo in ra làm gì? Sống với ai được? Độc giả với báo cũng như rồng với mây, cá với nước không thể nào mà rời nhau được.
Làm báo phải quý trọng độc giả, đó là lẽ tất nhiên.
Song, sự quý trọng ấy cung có nhiều cách, hoặc quý trọng bằng cách chân thành, hoặc quý trọng bằng cách giả dối, hoặc quý trọng bằng cách khinh bỉ.
Như tờ Phương đông này chưa hề viết thẳng lên báo cái câu “trọng danh dự của độc giả” bao giờ, nhưng cái ý quý trọng độc giả nó vẫn lai láng chứa chan ở câu văn nét chữ.
Thật, bạn đọc nghĩ mà coi, Đông phương không khi nào đem những tư tưởng hoang đường, văn chương thô bỉ mà công nhiên  bày lên mặt báo để mà làm dơ mắt độc giả.
Trái lại, hàng ngày Đông phương vẫn cống hiến độc giả bằng những tư tưởng mới mẻ, văn chương thanh tao, cho đến những tin lặt vặt, Đông phương cũng lựa chọn cẩn thận.
Ấy cách quý trọng độc giả của Đông phương thì thế.
Khác hẳn với Đông phương, một tờ báo nọ, ngày ngày la rằng trọng danh dự của quốc dân, nhưng cái trọng của họ kỳ khôi quá. Bạn đọ của tờ báo này, chắc không ai đọc tờ báo ấy. Vậy tôi xin nói qua vài cách “trọng độc giả” của họ.
Lật tờ báo của họ ra coi, ngoài những thời sự, tiểu thuyết, cũng có tranh vẽ, cũng có truyện vui, đủ cả lệ bộ.
Họ vẽ cái gì? Một lũ con gái đêm nằm ngủ truồng, thầy lý đòi vào đóng triện (?). Họ nói chuyện gì? Quản tiền quản hậu, con vàng, con vện, cu Đị, cu Đề…
Nói tóm lại, không còn một diều thô tục, ô uế nào mà họ không vẽ, không nói lên báo!
Có phải họ không biết những cái thô tục, ô uế ấy không phải là tài liệu của tờ báo đâu? Họ biết lắm! Nhưng ý họ cho rằng: “Độc giả của báo mình thuần là những hạng nghị quyết thích những món đó, thì mình phải đem những món đó mà dử họ. Cũng như người ta lấy kẹo mà dử trẻ con vậy”.
Cá trong ao cũng có con lớn con nhỏ, huống chi độc giả của một tờ báo, dù nhiều dù ít, há lại không có người thế nọ, kẻ thế kia? Vậy mà họ nhất luật coi làm hạng người có thể dùng kẹo mà dử! Ôi! Nghĩ mà thương cho độc giả của báo ấy.
Ấy đó, cái cách “quý trọng độc giả” của họ như vậy đó. Có ai là người muốn họ quý trọng bằng cách ấy không? Người vô giáo dục thì không biết, chứ người có giáo dục chắc không ai rẻ mình mà ưa cái kiểu thô tục ô uế ấy.
Đọc đến đây chắc bạn đọc muốn hỏi cái báo khốn nạn (1) ấy là báo nào?
                                                                                                  Thục Điểu
                                                                                      Đông phương, số 431, 1931
(1) Khốn nạn: hèn hạ, không còn nhân cách, đáng khinh bỉ, nguyền rủa, không còn ý nghĩa khó khăn nữa.

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Tin đồn là gì ? (1)


Tin đồn đã được một nhà nghiên cứu định nghĩa như sau: "đó là một tài khoản chưa được xác minh hoặc giải thích về các sự kiện được truyền đi từ người này sang người khác và những thông tin đó liên quan đến một đối tượng sự kiện vấn đề hoặc những mối quan tâm của công cộng"[1]. Tuy nhiên, một đánh giá nghiên cứu về tin đồn được tiến hành bởi Pendleton vào năm 1998 cho rằng phải căn cứ vào kết quả nghiên cứu trên các bình diện: xã hội học, tâm lý học , và truyền thông học một cách rộng rãi để có thể đưa ra được những định nghĩa khác nhau của tin đồn. 
Như vậy, tin đồn là một khái niệm mà thiếu một định nghĩa cụ thể trong khoa học xã hội . Tuy nhiên, hầu hết các lý thuyết đồng ý rằng tin đồn liên quan đến một số loại của một tuyên bố có tính xác thực là không nhanh chóng bao giờ xác nhận. 
Ngoài ra, một số học giả đã xác định tin đồn như một tập hợp con của tuyên truyền, sau này một khái niệm rất khó khăn để xác định. Một người tiên phong nghiên cứu tuyên truyền, Harold Lasswell định nghĩa tuyên truyền trong năm 1927 đã đề cập tin đồn có "mục đích duy nhất là sự kiểm soát ý kiến bằng biểu tượng quan trọng, hay nói cụ thể hơn và ít chính xác, bởi những câu chuyện, những tin đồn, báo cáo, hình ảnh, và các hình thức khác của truyền thông xã hội ".
Tin đồn cũng thường xuyên thảo luận về "thông tin sai lạc" và "sai lạc" (trước đây thường được coi là chỉ đơn giản là sai và sau này xem như là cố tình giả, mặc dù thường là từ một nguồn tin chính phủ cho các phương tiện truyền thông hay chính phủ nước ngoài). Tin đồn do đó thường được xem như các hình thức cụ thể của các khái niệm truyền thông khác.
"Tâm lý của tin đồn" đã được xuất bản bởi Robert Knapp năm 1944, trong đó ông báo cáo phân tích của ông trên 1.000 tin đồn trong thời gian chiến tranh thế giới thứ II đã được in trong "Rumor Clinic" Cột Boston Herald. Ông xác định tin đồn như một đề xuất cho niềm tin của các tài liệu tham khảo chủ đề phổ biến mà không cần xác minh chính thức. Vì vậy, có thể định dạng, xác định tin đồn là một trường hợp đặc biệt của thức truyền thông xã hội, bao gồm cả huyền thoại, truyền thuyết, và hài hước.. Từ huyền thoại và truyền thuyết, nó được phân biệt bởi sự nhấn mạnh vào các chủ đề. Trường hợp sự hài hước được thiết kế để gây tiếng cười, tin đồn  thường hướng đến một  niềm tin nào đó.
Knapp đã xác định ba đặc điểm cơ bản áp dụng cho các tin đồn:
1. họ đang truyền bằng lời nói,
2. họ cung cấp "thông tin" về một "người xảy ra, hoặc điều kiện";
3. họ thể hiện và thỏa mãn nhu cầu tình cảm của cộng đồng.
Dựa trên nghiên cứu của ông của các cột báo, Knapp chia những tin đồn thành ba loại:
1. Ống giấc mơ tin đồn: phản ánh mong muốn của công chúng và mong muốn cho kết quả (dự trữ dầu ví dụ như Nhật Bản thấp và do đó chiến tranh thế giới thứ II sẽ sớm kết thúc.).
2. Giá chuyển hướng hoặc lo sợ những tin đồn phản ánh kết quả đáng sợ (ví dụ: Một cuộc tấn công bất ngờ của đối phương là sắp xảy ra).
3. Tin đồn Wedge cố gắng làm suy yếu nhóm các cá nhân hoặc điều khiển các mối quan hệ giữa các cá nhân (ví dụ như người Công giáo Mỹ đã tìm cách tránh những dự thảo, người Mỹ gốc Đức, người Mỹ gốc Ý, người Mỹ gốc Nhật đã không trung thành với phía Mỹ).
Trong nghiên cứu năm 1947, Tâm lý của tin đồn, Gordon Allport và Joseph Postman kết luận rằng, "như tin đồn đi [...] phát triển ngắn hơn, ngắn gọn hơn, dễ dàng nắm bắt và nói". Kết luận này được dựa trên một bài kiểm tra tin nhắn phổ biến giữa các cá nhân, mà thấy rằng khoảng 70% chi tiết trong một tin nhắn đã bị mất trong vòng 5 - 6 truyền miệng tới miệng đầu tiên.
Trong thí nghiệm, một đối tượng thử nghiệm cho thấy một minh hoạ và có thời gian để nhìn nó. Sau đó họ được yêu cầu để mô tả các cảnh từ bộ nhớ vào một đối tượng thử nghiệm thứ hai. Đối tượng thử nghiệm thứ hai này sau đó đã được yêu cầu để mô tả cảnh một phần ba…
Allport và Postman sử dụng ba thuật ngữ để mô tả sự chuyển động của tin đồn. Đó là: san lấp mặt bằng, độ sắc nét,  đồng hóa. San lấp mặt bằng liên quan đến mất chi tiết trong quá trình truyền dẫn; mài để lựa chọn một số chi tiết trong đó để truyền tải và đồng hóa biến dạng trong việc truyền tải thông tin như là một kết quả của động cơ tiềm thức .
Đồng hóa được quan sát thấy khi đối tượng thử nghiệm mô tả minh họa như họ phải được nhưng không phải là họ thực sự là. Ví dụ, trong một minh họa mô tả cảnh một trận chiến, đối tượng thử nghiệm thường không chính xác báo cáo một chiếc xe tải xe cứu thương trong nền minh hoạ mang theo vật tư y tế, "khi nào, trên thực tế, nó đã được rõ ràng mang hộp đánh dấu"


[1] Peterson, Warren; Gist, Noel (1951). "Tin đồn và ý kiến công chúng" Tạp chí Xã hội học 57 (2): 159-167. 

Tin đồn là gì? (2)


Tin đồn như Chiến lược truyền thông chính trị

" Tuyên truyền trung lập được định nghĩa là một hình thức hệ thống về thuyết phục có mục đích cố gắng để ảnh hưởng đến những cảm xúc, thái độ, ý kiến, và hành động của khán giả với mục tiêu cụ thể cho các mục đích ý thức hệ, chính trị hoặc thương mại thông qua việc truyền tải được điều chỉnh thông điệp một chiều (mà có thể hoặc có thể không phải là thực tế) thông qua các kênh phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp tổ chức tuyên truyền sử dụng các tuyên truyền viên tham gia vào các sáng tạo theo cách tuyên truyền chủ nghĩa (propagandism) áp dụng và phân phối với các hình thức thuyết phục".
(Richard Alan Nelson, niên sử và Danh mục các thuật tuyên truyền tại Hoa Kỳ năm 1996)
Trong nhiều nghiên cứu trước đây, tin đồn xuất phát từ cách tiếp cận tâm lý (như các cuộc thảo luận của Allport và DiFonzio chứng minh ở trên). Đã được tập trung đặc biệt là báo cáo của tính xác thực vấn đề (hoàn toàn sai lầm tai của một số thính giả) lưu thông bằng miệng từ người này sang người khác. Học quan tâm đến tin đồn chính trị ít nhất là như cũ như lời nói của Aristotle, tuy nhiên, không phải cho đến gần đây đã bất kỳ sự chú ý duy trì và phát triển khái niệm được hướng vào các mục đích sử dụng chính trị của tin đồn, ngoài vai trò của nó trong các tình huống chiến tranh. Làm việc gần như không có đã được thực hiện cho đến gần đây về việc làm thế nào các hình thức khác nhau của các phương tiện truyền thông và các điều kiện văn hóa - lịch sử đặc biệt có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự khuếch tán của tin đồn. 
Đã cho thấy khả năng bao giờ mới xuất hiện gần đây của internet như một công nghệ truyền thông mới cho sự khuếch tán nhanh chóng của tin đồn, như các trang web vạch trần như snopes.com, urbanlegend.com, và factcheck.org chứng minh. Cũng không có nghiên cứu trước đây đưa vào xem xét các hình thức cụ thể hoặc phong cách của những tin đồn cố tình lựa chọn cho các mục đích chính trị trong hoàn cảnh cụ thể (mặc dù sự chú ý đáng kể đến sức mạnh của tin đồn cho hàng loạt phương tiện truyền thông - khuếch tán tuyên truyền chiến tranh đã được thịnh hành kể từ Chiến tranh Thế giới I; Lasswell 1927). Trong những năm đầu của thế kỷ 21, một số học giả pháp lý đã tham dự để sử dụng chính trị của tin đồn, mặc dù khái niệm của nó vẫn còn xã hội tâm lý và giải pháp của họ cho đó là vấn đề công cộng từ một quan điểm học thuật pháp lý, phần lớn phải làm gì với tội phỉ báng và pháp luật bảo mật thông tin và thiệt hại cho danh tiếng cá nhân. 

Tin đồn trong chiến lược truyền thông

Tương tự như xuất hiện và chức năng của họ trong giao tiếp chính trị, tin đồn trong đó có thể được triển khai cho ảnh hưởng có hại cụ thể (tin đồn bom) hoặc nếu không có thể gây tai họa một ứng cử viên cho văn phòng, tin đồn cũng đóng một vai trò quan trọng trong giao tiếp chiến lược . Chiến lược truyền thông là quá trình tạo lập các thông điệp trong hỗ trợ các mục tiêu cụ thể tổ chức, và thường được quan tâm với các chính phủ, quân đội và các tổ chức phi chính phủ ( NGO ). Truyền thông chiến lược khéo léo đòi hỏi một sự hiểu biết của câu chuyện, xu hướng và lưu thông trong một nền văn hóa.
Tin đồn có thể được xem như là những câu chuyện có vẻ hợp lý nhưng đang chìm ngập vào đầu cơ, kết nối với một cảnh quan tường thuật nhất định (các mảng rộng lớn của biểu thức văn hóa lưu thông trong một cộng đồng hoặc khu vực) . Trong cuốn sách của họ, mìn tự thuật: Tin đồn, nghĩa cực đoan Hồi giáo và cuộc đấu tranh cho chiến lược ảnh hưởng , đồng tác giả Daniel Bernardi, Pauline Hope Cheong, Chris Lundry và các Scott W. Ruston đồng xu dài tường thuật IED để giúp giải thích các chức năng và nguy hiểm của tin đồn một bối cảnh truyền thông chiến lược. Tin đồn, là IED tường thuật, chi phí thấp, thấp vũ khí công nghệ truyền thông có thể được sử dụng bởi bất cứ ai phá vỡ những nỗ lực của truyền thông, các vấn đề dân sự hoặc các chiến dịch tiếp cận cộng đồng như những cam kết của chính phủ trong các tình huống ứng phó khủng hoảng hoặc quân đội trong quân nổi dậy. Khi ghi chú Bernardi "," Giống như người anh em họ bùng nổ của họ, tin đồn có thể được tạo ra và trồng gần bất cứ ai, yêu cầu nguồn lực hạn chế sử dụng, có thể gây tử vong cho những người trong đường dẫn trực tiếp của nó, và có thể thấm nhuần nỗi sợ hãi ".
                                                                            (nguồn http://en.wikipedia.org/wiki/Rumor)

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Nhạt (2)

Ai đó cho rằng, sợ nhất là sự nhạt nhẽo. Nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ từ người đến mình, đúng là cái sự nhạt nhẽo chán thật, chán cả người chán cả mình. Có nhiều kiểu nhạt, nhiều cách biểu hiện của sự nhạt ấy. Hồi Tết năm nào, một sếp nhờ tôi chuyển quà biếu một sếp khác, ổng nói tao cũng chẳng thích thú gì hắn đâu nhưng thôi có thờ có thiêng... Tôi gõ cửa vào phòng sếp, không buồn mời nhau ngồi xuống, nghe tôi chuyển lời và chuyển quà Tết, ổng cười nhạt, cảm ơn nhạt rồi chìa cái tay ra bắt ra ý say goodbye... Trời ơi cái bắt tay băng bàn tay mềm nhũn, giờ nghĩ lại vãn thấy ghê, sao mà lại có người nhạt nhẽo, ưỡn ẹo thế, cái sự nhạt nó hiện ra cả tay. Không biết bố ấy khi ôm gái thì thế nào, chứ cứ ưỡn ẹo thế con người ta kinh chết được. Bật đài lên, đằng đẵng mấy chục phút đầu là tin đầu người, toàn lãnh đạo là lãnh đạo, phát biểu rặt những câu tự kỷ như chúng ta phải thế nọ, chúng ta phải thế kia, lâu lâu không thấy ân cần căn dặn hỏi han nuôi con gì, trồng cây gì nữa, hôm nay thấy có bố hỏi là phải làm thế nào, phải làm cái gì...  toàn những điều người khác viết đem ra đọc nên không thoát ra được nghe cứ đều đều như tiếng xuồng máy trên sông Hậu, cứ văng vẳng, văng vẳng như thật như không, may là bố không ngẩng được cái đầu lên không thì chẳng khác mấy đứa truyền hình đọc kiu nhìn đấy mà vô hồn vô sắc. Nói chung là nhạt, nhạt từ ý tứ nhạt đến con người. Kẻ ngồi xó nhà này trộm nghĩ mình ít chữ còn thấy những điều đó nhạt nhẽo, huống hồ các bố chữ nghĩa đầy mình, biết thừa mình đang nói gì, tự thấy chán, tự thấy nhạt, thậm trí còn tự thấy xấu hổ với chính mình nữa. Bốc máy định alo cho thằng cháu làm cái tin đó, định nói một câu gì đó rằng mày không chán à, không thấy những điều đó nhạt nhẽo à mà sao làm ăn thế. Rồi lại thôi. Âu cũng là cái liễn thôi, thử hỏi mình là nó mình sẽ làm thế nào, còn thế nào nữa nhạt toàn tập thôi. Giờ lý luận báo chí truyền thông đã thay đổi nhiều rồi, hiện đại nhiều rồi, không mộc mạc như thời Liên Xô cũ và vừa mới cũ nữa. Tuy vậy vẫn nhớ mr Hài định nghĩa chó cắn người không phải là tin, người cắn chó mới là tin... Toàn những học trò xuất sắc một thời của mr Hài không hài mới lạ, không nhạt mới lạ. Cũng chẳng biết nữa, chó cắn người, người cắn chó khác gì nhau nhiều đâu, ăn nhạt thương mèo, tin nhạt thương ai, người nhạt ai thương? Có ai hiểu nỗi lòng của kẻ ít chữ và nhạt tình này không?

Hơn nửa đời hư (3)



Tôi viết entry này khi đang học về công tác lễ tân. Giống như bài học về chủ trì hội nghị, kỹ năng đàm thoại, phản biện, đàm phán… toàn những điều làm mãi rồi nhưng hỏi ra mới biết chưa mấy ai được trang bị một cách bài bản bao giờ. Hôm cuối tuần trước, lão H… nói mày đi làm mà cứ quần jeans áo pull thế này à, cãi ngay được là mặc thế mới thoải mái, hơn nữa, đố anh tìm thấy được một văn bản nào quy định bắt buộc là phải ăn mặc như thế nào, đi đứng thế nào cho đúng nghi thức lễ tân, đối ngoại. Nếu ai đó nói phải mặc thế này thế khắc chẳng qua là sự thể hiện sự khó tính hay đố kỵ của người đó với người khác mà thôi. Tôi dùng chữ khó tính hay đố kỵ có thể là hơi nặng nhưng đấy là ý nghĩ cá nhân của tôi trên cơ sở chiêm nghiệm lại những gì mình biết. Nhiều khi ăn mặc là một thói quen hơn là một nghi thức bắt buộc. Tôi nhớ hồi những năm 1990, tôi mới đi học về, thói quen đi giày đã hình thành, buổi trưa mùa hè nắng và nóng lắm, thằng bé đánh giày mồ hôi nhễ nhại càng nhễ nhại hơn khi thấy tôi lại đi tất và xỏ giày. Khi tôi mới về nhận nhiệm vụ ở đây, hôm đó có một hội nghị lớn, tôi ăn mặc rất chỉnh tề, tự nhiên thấy sếp liếc xéo phát, anh nói mày thử nhìn xung quanh xem, chỉ có các VIP comle cà vạt thôi… ừ, đơn giản mình chỉ nghĩ lễ tân là yêu cầu tối thiểu trong giao tiếp, nhất là trong các cuộc trọng thể như thế này, nhưng nếu đó là điều lạc lõng thì thôi… Đấy có thể là do sự khó tính của sếp, cũng có thể là do sự đố kỵ của sếp, đương nhiên làm thằng lính mà ăn mặc oách hơn ổng là không được rồi. Chưa đủ tuổi oách thì đừng oách hơn sếp em nhé.
 Rồi thói quen ấy dần dần được thay bằng một thói quen khác. Có lẽ sự giản đơn trong suy nghĩ dẫn đến sự giản đơn trong việc ăn mặc không hẳn là thói quen của tôi mà của rất nhiều người. Sự luộm thuộm có một lẽ nữa là không nắm được những nguyên tắc tối thiểu của lễ tân. Thứ nhất, là chẳng bố nào được dạy bảo cẩn thận, không có một quy định nào chính thức; thứ hai, nói một cách sâu xa hơn là do phông văn hóa của chúng ta không có chỗ cho vấn đề này. Tôi nhớ hồi lần đầu tiên làm Quốc giỗ Hùng vương, bàn cãi mãi việc chủ lễ mặc quốc phục mà không đưa ra được phải mặc cái gì. Chẳng biết gốc gác cái áo dài của phụ nữ có phải là chuẩn Việt Nam không, nhưng cứ coi đấy là lễ phục còn được, nhưng với nam giới thì phải mặc gì, khăn đóng áo the có phải không? chẳng ai quyết định được việc này, thôi cứ theo thằng tây comlê cà vạt là được. Dự Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 10 ở Đà Lạt, có buổi chiêu đãi tiệc đứng, có bác mặc áo đại cán, có bác mặc áo comlê nhưng tay xách cặp, tay cầm mũ cối (không dám gửi đâu vì sợ mất), do ăn tiệc đứng chưa quen lại tay xách nách mang và phải tự phục vụ nữa nên nên hôm đó nhiều người bị đói, thì đói là đúng rồi. Chuyện ăn mặc lôm côm của năm tháng hậu chiến vậy thì thôi không dám bàn nữa, chỉ buồn cười là chuyện bây giờ, khi mà chúng ta đã vận hành sâu kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế mà chuyện ăn mặc vẫn lôm côm mới là chuyện đáng buồn. Năm trước, tôi đi dự một hội thảo quốc tế tại Singapore, đoàn Việt Nam gồm nhiều thành viên đến từ nhiều cơ quan khác nhau. Tôi không dự cuộc gặp mặt đoàn trước khi đi, một phần do bận việc, một phần do tính chất độc lập của chuyến đi nên tôi thấy cũng không cần thiết phải gặp nhau trước làm gì, sang đấy thế nào chẳng gặp. Ra sân bay, có anh phê bình luôn sao mày mặc quần soóc áo phông thế, ra quốc tế người ta cười cho… tôi chỉ cười, cười vì thấy các anh đã chỉnh tề comlê càvạt, giày tây bóng lộn, anh nào anh nấy tay xách nách mang toàn mỳ tôm, thậm chí cả ấm điện nữa. Trong khi đó, tôi chỉ có một vali nhỏ, hai cái túi, một đựng quà lưu niệm, một để đôi giày tây, chân đi đôi dép xỏ ngón. Họ trách mình là phải, vì mình khác họ. Do transit qua Tân Sơn Nhất nên phải sau gần 6 tiếng cả đoàn mới đến khách sạn ở quốc đảo Sư tử, nhìn comlê càvạt mới thấy thảm hại làm sao, có lẽ họ ngạc nhiên lắm khi thấy trên máy bay và ở Singapore nữa hầu hết mọi người đều mặc như tôi. Hình như họ cũng rút kinh nghiệm thì phải, hôm sau, dự buổi lễ khai mạc, tôi mặc lễ phục, cũng comle cà vạt hẳn hoi, còn họ lại mặc sơ mi suông… Tất cả chỉ vì sự long trọng hoá vấn đề trên cơ sở chẳng hiểu gì việc lễ tân và ứng xử đối ngoại. Bạn xem ti vi thì thấy, từ cán bộ cấp trên đến anh trưởng thôn cứ lên ti vi là hầu hết comlê cà vạt, cho oách, không cần biết là đang đứng cạnh chồng lợn để nói về dịch lở mồm long móng, đang đứng trên xuồng để chỉ đạo bão lụt. Đấy là sự bất cập về nhận thức, thấm nhuần lời dạy của các cụ là “lạ sợ quần áo”, phải ăn mặc thật oách mới thể hiện được ta đây. 

Cái sự ta đây khi tôi ở Singapore cũng có chuyện buồn cười, ngay hôm đầu tiên sang đó, tôi đã kiếm được một đôi Bata rất xịn, vì nó là hàng hiệu, vì dùng để đi lại rất thuận tiện, buổi tối và những ngày nghỉ mấy anh em rủ nhau đi lang thang khắp nơi, Singapore nhỏ như Hà Nội của mình nên đi bộ là chính, mình thì quần Jeans áo pull, giày thể thao, còn anh em cứ lễ phục giày tây, tiếc là không có cái mũ cối nữa dạo phố suốt. Đố ai đi giày tây hàng chục cây số được, lê bước là chính thôi, nghĩ mà thương cho người Việt mình thật. Oách thì oách thế nhưng ăn mỳ tôm là chính, đói gần chết. Tôi nhớ, ngoài đài thọ việc đi lại và khách sạn, nhà tổ chức còn cấp mỗi ngày 40 đô la Sing, khoảng 25 USD, số tiền đó không phải là nhiều nhưng nếu đi ăn cơm văn phòng như ở mình thì mỗi bữa chỉ hết độ 5 đô la Sing một người, vấn đề là sợ tốn kém quá, ai lại ăn một ngày hết cả trăm ngàn, thà ăn mì tôm còn hơn. Tôi chẳng có mỳ tôm mang theo, nhưng nếu cần ăn thì xuống siêu thị ở tầng 1 khách sạn, 1 đô Sing một tá mỳ gói, có khi còn rẻ hơn mỳ Việt Nam mình. Trong hành trang đi nước ngoài của tôi bao giờ cũng có vài chai Lúa Mới, tôi chưa thấy ở nước nào rượu bia rẻ cả, nên đem rượu đi là cách hay nhất, hơn nữa, đấy là thứ quốc hồn, quốc tuý cần thiết để chiêu đãi bạn bè nước khác. Phải chăng đây cũng là một văn hoá trong ứng xử quốc tế. Bạn bè các nước khác khi gặp mình bao giờ cũng có quà, vậy nên ra Bờ Hồ mua vài hộp đó sứ mỹ nghệ  giá không quá 20 USD nhưng khi bóc ra làm quà tặng cho mọi người thì quý lắm, không phải quý về giá trị của mòn quà mà là quý về văn hoá ứng xử. Điều đó rất tiếc chẳng ai dạy chúng ta cả. Tự bỏ tiền túi ra mà mua lấy sự khôn ngoan ứng xử đấy thôi. Văn hoá mỳ tôm còn chuyện đau buồn nữa, hôm đó, bọn tôi đi chơi rất xa và bị lạc đường, đấy là một khu người Hoa nên không hỏi đường được, tôi nói dẫu sao cũng mệt rồi, kêu taxi về, anh em không nghe, có khi phải tốn đến hàng chục đô sing chứ không phải ít. 10 đô sing khoảng 100 ngàn tiền mình, so với lương công chức là lớn, nhưng với tình huống ấy thì có đáng bao nhiêu, hơn nữa có bốn năm con người. Vậy mà họ đã bỏ tôi lại để tự tìm đường về. Tôi rất buồn vì điều đó, nên đã ngồi ở một ghế đá ven đường. Một người đi xe đạp thấy vậy, dừng lại hỏi tôi có cần giúp gì không, nghe tôi kể người ấy không nói gì, khoá xe đạp vào cái cột ven đường rồi dẫn tôi ra bến xe buýt, tôi nói tôi không có thẻ thanh toán xe buýt, người ấy bảo sẽ đưa tôi về tận nơi bằng xe buýt… mấy phút sau chúng tôi đã về đến khách sạn, tôi gửi tiền lại cho anh ấy, anh ấy vui vẻ nhận lại. Sự sòng phẳng đó thật hay, cái gì giúp được là giúp, cái gì phải thanh toán là phải sòng phẳng. Chỉ buồn là mấy tiếng sau mấy anh bạn tôi về, chẳng ai nói lại một câu nào nữa. Chính xác lúc đó tôi thấy thật xấu hổ với người Việt Nam mình.
Đọc Phạm Thị Hoài nhớ chuyện cái mũ lông thỏ và bông tuyết trên cây bạch dương, thời trước ai đã ra nước ngoài mà khi về không có bức ảnh chụp với thỏ và tuyết thì coi như chưa đi nước ngoài. Bây giờ điều đó có khác gì không? về cơ bản chẳng khác gì cả, có khác là khác chuyện lông thỏ hay tuyết thôi, vì bây giờ mối quan hệ quốc tế đã mở rộng, nhiều nước không có tuyết mà cũng không cần phải đội mũ lông thỏ. Vậy thì phải thay bằng gì? bằng ảnh chụp các danh dam, thắng cảnh… thế thôi. Ra nước ngoài để mà học hỏi, mà xem người ta làm ăn như thế nào chẳng được mấy người, phần nhiều sang đó để mua đồ hạ giá, đi chơi và chụp ảnh lưu niệm. Nhưng khi về nhà thì nói ghê lắm, nào là trò chuyện với ông này ông kia, đến công ty nọ công ty kia, đàm phán thế này thế khác… Chuyện thật như đùa, năm 2003, có cơ quan phát hiện một va li ai đó bỏ quên ở sảnh, do không khí sau sự kiện 11/9, sau khi hỏi mãi chẳng ai nhận vali của mình, cơ quan đó mới nhờ công an xử lý, mở cái valy đầy những tên các hãng hàng không quốc tế ấy ra trong đó toàn đồ lót của chị em… thành quả đi nước ngoài của anh nào đó, chẳng cần nói thêm gì nữa.
Anh bạn tôi ở nước ngoài rất lâu, từ năm 1978 đến năm 1994 mới về nước. Một lần tôi hỏi đùa, rằng anh ở đấy lâu thế có biết con “rùa” tây thế nào không. Anh trả lời, chú cứ ra chợ lao động Giảng Võ ấy, bọn anh chẳng khác gì mấy người lao động thuê ấy đâu. Ra Hà Nội lao động, về quê thì kể chuyện ghê lắm, nào là ăn thế này, chơi thế kia, nhưng thật ra thì đố đứa nào dám chứ đừng nói là biết rùa hay rắn Hà Nội như thế nào, bọn anh cũng thế thôi, bây giờ nếu nói là biết thì có thể nói ghê gớm lắm, nhưng nói toạc ra là còn lâu mới đủ trình độ để biết “rùa” của nó, chú ạ./.   (repost myself)